TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 01/2022/HC-PT NGÀY 27/12/2022 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Trong ngày 27 tháng 12 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 02/2022/TLPT-HC ngày 02 tháng 11 năm 2022 về việc “Khiếu kiện quyết định xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do bản án hành chính sơ thẩm số 01/2022/HC-ST ngày 14/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 01/2022/QĐ-PT ngày 08 tháng 12 năm 2022, giữa các đương sự:
Người khởi kiện: Ông Huỳnh Văn Phương Q, sinh năm 1963;
Địa chỉ: Ấp 3, xã A, huyện T, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đặng Trường C, sinh năm 1974;
Địa chỉ: Số 32, đường 833 khu phố P, phường 5, thành phố A, tỉnh Long An.
Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, tỉnh Long An do ông Lê Văn S đại diện theo pháp luật Người có quyền và nghĩa vụ liên Q: Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện T.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đoàn Qg T, Cán bộ đo đạc Người tham gia tố tụng khác:
Không triệu tập gồm:
- Bà Trần Thị A, Chuyên viên Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện T.
- Ông Nguyễn Lê N, Công chức Văn phòng Thống kê Ủy ban nhân dân xã A, huyện T.
(Ông C, ông S có mặt; đại diện chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện T có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện và lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án của người khởi kiện có nội dung như sau:
Ông Đặng Trường C đại diện cho ông Q yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Quyết định số 152/QĐ-KPHQ ngày 15 tháng 2 năm 2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, tỉnh Long An.
Lý do: Năm 1987 ông Q có nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị H thửa đất 1060, tờ bản đồ số 3, diện tích 2.333m², loại đất thổ, tọa lạc tại ấp 3, xã A, huyện T, tỉnh Long An. Năm 1990 ông Q tiếp tục nhận chuyển nhượng của bà Hoa thửa 1120, tờ bản đồ số 3, diện tích 2.001m2; loại đất lúa, tọa lạc tại ấp 3, xã A, huyện T, tỉnh Long An. Thời điểm này, thực tế trên đất không có kênh thoát nước công cộng, nhưng một số hộ dân làm lúa trên lộ làng yêu cầu ông Q chừa ra khoảng 0,5m để làm đường thoát nước; hàng năm ai sử dụng đường nước này sẽ trả tiền ông.
Đến năm 1988 Nhà nước làm đường lộ lớn, các hộ dân làm lúa trên thông báo cho ông Q không sử dụng đường nước này nữa nên ông Q đã san lấp đường thoát nước nêu trên và làm ruộng đến nay. Vị trí thửa đất 1060, 1120 có hai cạnh giáp với lối đi công cộng, không có kênh nước công cộng.
Đến năm 2020, do vật nuôi và cây trồng bị phá, mất cắp nên ông Q làm hàng rào bằng lưới P40 xung quanh phần đất của ông Q để bảo vệ tài sản thì một số hộ dân xung quanh khiếu nại với Ủy ban nhân dân xã A yêu cầu ông Q tháo dỡ hàng rào, trả lại đường nước đã san lấp năm 1988 để mở rộng lối đi công cộng. Ủy ban nhân dân xã A đã hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Ngày 20/01/2022 Ủy ban nhân dân xã A lập biên bản vi phạm hành chính, ngày 15/2/2022 Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A ra Quyết định buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả “Buộc khôi phục lại hiện trạng ban đầu trước khi vi phạm”.
Người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A - ông Lê Văn S trình bày: Sau khi có khiếu nại của các hộ dân yêu cầu ông Q trả lại đường nước như hiện trạng ban đầu, Ủy ban nhân dân xã A tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Ủy ban nhân dân xã A có báo cáo xin ý kiến Ủy ban nhân dân huyện T, Thanh tra huyện T, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T, Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện T, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T xác minh thực tế, đo đạc thực tế phần lấn chiếm của ông Q và xác minh nguồn gốc đất của ông Q nhận chuyển nhượng từ bà H. Hiện tại ông Q đã lấp đường nước phần giáp ranh thửa đất lúa của ông, hiện trạng còn đường nước và ông Q đã làm hàng rào xung quanh hai thửa đất trên. Qua phần khởi kiện của ông Q, ông S đề nghị ông Q dở hàng rào khôi phục lại đường nước như hiện trạng ban đầu.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên Q ông Đoàn Quang T, cán bộ đo đạc và là người đại diện theo ủy quyền của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai tại huyện T trình bày: Tại biên bản về việc thống nhất hướng giải quyết trường hợp của ông Huỳnh Văn Phương Q ngày 10/6/2021 có sự tham dự của ông Trần Văn S, là Giám đốc Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai tại huyện T có ý kiến rằng Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai tại huyện T chịu trách nhiệm đo đạc phần đất lấn chiếm để có cơ sở lập biên bản vi phạm hành chính. Ông T được phân công đo đạc trực tiếp, phát hành mảnh trích đo phần đất lấn chiếm.
Tại bản án hành chính sơ thẩm số 01/2022/HC-ST ngày 14/09/2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Long An đã quyết định:
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193; Điều 348, Điều 357, Điều 358 Luật Tố tụng Hành chính; Căn cứ Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Áp dụng Điều 28, khoản 2 Điều 65, Điều 85 Luật xử lý vi phạm hành chính; Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 15 Nghị định số 91/2019/NĐ -CP ngày 19/11/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn Phương Q về việc yêu cầu hủy Quyết định số 152/QĐ-KPHQ ngày 15/02/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, tỉnh Long An. Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyển về án phí và quyền kháng cáo của các bên theo quy định c ủa pháp luật.
Ngày 23/9/2022, ông Huỳnh Văn Phương Q kháng cáo toàn bộ bản án hành chính sơ thẩm nêu trên .
Lý do: Theo biên bản vi phạm hành chính số 81/BB -VPHC ngày 20/01/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A, xác lập hành vi hành chính đối với ông Q “làm biến dạng địa hình thửa đất như san lấp mương nước tưới tiêu do Nhà nước quản lý tại ấp 3, xã A, huyện T, tỉnh Long An không được thẩm quyền nhà nước cho phép. Diện tích vi phạm 71,3m2 đã san lấp năm 2004 (theo trích đo số 144/2021 được chi nhánh Văn ph òng đăng ký đất đai tại huyện T thẩm định ngày 28/7/2021”. Vi phạm theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 15 Nghị định số 91/2019/NĐ -CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ là không khách Q, không đúng thực tế.
Thứ nhất: Mảnh trích đo số 144/2021 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T thẩm định ngày 28/7/2021. Do Ủy ban nhân dân xã phối hợp Chi nhánh Văn phòng đăng tự đo vẽ, không có sự chứng kiến hay đồng ý của ông Q. Đồng thời, trên bản đồ địa chính, thực tế trên thửa đất số 1120 không có đường mương nước. Kết quả đo vẽ (Mảnh trích đo số 144/2021) không thông báo hay giao cho ông Q biết.
Thứ hai: Áp dụng chưa đúng quy định pháp luật. Quyết định buộc khắc phục hậu quả số 152/QĐ-KPHQ ngày 15/02/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã không căn cứ quy định pháp luật (khoản 3 Điều 15 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP) để áp dụng chế tài khắc phục hậu quả. Biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm “làm biến dạng địa hình hoặc… theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Nghị định số 91/2019/NĐ -CP quy định “Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm. Trường hợp người có hành vi vi phạm không chấp hành thì nhà nước thu hồi đất t heo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 64 Luật đất đai. Như vậy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã không có thẩm quyền ra quyết định theo quy định này.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện ông Lê Văn S xác định khi ra quyết định 152/QĐ-KPHQ ngày 15/2/2022 có nhiều sai sót trong áp dụng điều luật và ghi nhầm khoản 4 thành khoản 5, nên sau khi Tòa sơ thẩm xét xử xong, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A ban hành quyết định 919/QĐ -SĐBSHB ngày 26/10/2022 sửa đổi, bổ sung quyết định 152QĐ-KPHQ, đồng thời trước Tòa ông S khẳng định việc ra quyết định 919/QĐ-SĐBSHB cũng có nhiếu sai sót nên ông xin rút lại toàn bộ 02 quyết định nêu trên để ban hành lại quyết định khác đúng qui định của pháp luật.
Người đại diện theo ủy quyền cho ông Q là ông Đặng Trường C không rút đơn khởi kiện và không đồng ý rút kháng cáo.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Đại diện Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai giữ nguyên lời trình bày như trên và không có ý kiến gì khác.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Hội Thẩm nhân dân thực hiện đúng quy định của Luật Tố tụng Hành chính.
Về nội dung: Ông Q kháng cáo trong thời hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung: Qua diễn biến tại phiên tòa hôm nay cho thấy người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A, huyện T đã cung cấp thêm tình tiết mới là quyết định 919/QĐ-SCBSHB ngày 26/10/2022 về việc sửa chữa, bổ sung quyết định 152/QĐ-KPHQ, quyết định 919/QĐ-SCBSHB là quyết định hành chính có liên Q không thể tách rời quyết định 152, nên phải được xem xét giải quyết. Tuy nhiên do quyết định 919/QĐ-SCBSHB ngày 26/10/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A được ban hành sau khi xét xử sơ thẩm nên Tòa án cấp sơ thẩm không thể xem xét giải quyết được. Tại phiên tòa phúc thẩm người bị kiện rút lại 02 quyết định hành chính nêu trên, nhưng người khởi kiện không rút đơn khởi kiện và không rút kháng cáo nên để xem xét toàn diện vụ án và đảm bảo hai cấp xét xử, đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án hành chính sơ thẩm số 01/2022/HC-ST ngày 14/9/2022 giao hồ sơ về cho cấp sơ thẩm giải quyết lại theo qui định của pháp luật.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu chứng cứ, ý kiến của những người tham gia tố tụng và ý kiến Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục kháng cáo: Ông Huỳnh Văn Phương Q có đơn kháng cáo trong hạn luật định và nội dung đơn kháng cáo đúng quy định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về đối tượng khởi kiện và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đơn khởi kiện của ông Huỳnh Văn Phương Q yêu cầu hủy Quyết định số 152/QĐ-KPHQ ngày 15 tháng 2 năm 2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, tỉnh Long An. Đây là khiếu kiện quyết định xử phạt hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, vì vậy Tòa án nhân dân huyện T thụ lý giải quyết theo trình tự sơ thẩm là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 30, Điều 31 của Luật Tố tụng Hành chính.
Sau khi xét xử sơ thẩm người khởi kiện là ông Q có đơn kháng cáo, nên Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý xét xử theo trình tự phúc thẩm là phù hợp theo quy định tại Điều 204, 217 Luật Tố tụng Hành chính.
[3] Về thời hiệu khởi kiện: Ông Huỳnh Văn Phương Q nhận Quyết số 152/QĐ-KPHQ ngày 15/2/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A, huyện T vào ngày 17/02/2022. Do đó, ngày 28/02/2022 ông Q nộp đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án là trong thời hiệu, đúng quy định tại Điều 116 của Luật Tố tụng Hành chính.
[4] Về Nội dung:
Ông Q có hành vi san lấp đường nước và kéo lưới P40 rào bao bọc đường nước, cụ thể năm 1993 – 1994 ông Q có hành vi san lấp đường nước liền kề thửa 1120, đến năm 2020 ông Q kéo lưới và rào bao bọc đường nước liền kề thửa 1120 và thửa 1060. Hành vi của ông Q đã vi phạm Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 về quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực đất đai nên ngày 20/01/2022 Ủy ban xã A huyện T, tỉnh Long An tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính đối với ông Huỳnh Văn Phương Q. Ngày 15/02/2022, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, tỉnh Long An ban hành Quyết định số 152/QĐ-KPHQ ngày 15 tháng 2 năm 2022 buộc ông Q phải thực hiện hành vi khắc phục hậu quả đối với hành vi tự ý san lấp đường nước và kéo lưới rào bao bọc đường nước, không đồng ý với quyết định trên ông Q kháng cáo cho rằng Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A lập biên bản vi phạm hành chính ngày 20/01/2022 không khách Q, không đúng thực tế và Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A ra quyết định 152/QĐ-BKPHQ áp dụng không đúng điều luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A rút lại hai quyết định hành chính 152/QĐ-BKPHQ và quyết định 919/QĐ- SCBSHB, tuy nhiên người khởi kiện không rút đơn khởi kiện, đồng thời không rút kháng cáo; xét thấy, sau khi xét xử sơ thẩm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A ra quyết định 919/QĐ-SCBSHB ngày 26/10/2022 về việc sửa chữa bổ sung quyết định 152/QĐ -BKPHQ, quyết định 919/QĐ-SCBSHB là quyết định hành chính có liên Q không thể tách rời quyết định 152/QĐ-BKPHQ, nên phải được xem xét giải quyết. Tuy nhiên do quyết định 919/QĐ-SCBSHB ngày 26/10/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A được ban hành sau khi xét xử sơ thẩm nên Tòa án cấp sơ thẩm không thể xem xét giải quyết được, đây là nguyên nhân khách quan. Tại phiên tòa phúc thẩm người bị kiện rút lại 02 quyết định hành chính nêu trên, nhưng người khởi kiện không rút đơn khởi kiện và không rút kháng cáo, nên để xem xét toàn diện vụ án và đảm bảo hai cấp xét xử, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy cần thiết phải hủy bản án hành chính sơ thẩm số 01/2022/HC-ST ngày 14/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện T, giao hồ sơ về cho cấp sơ thẩm giải quyết lại mới đúng qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 241; Điều 30, Điều 31, Điều 116, Điều 204, Điều 217, Điều 349, Điều 357, Điều 358 Luật Tố tụng Hành chính;
Căn cứ Điều 34 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội .
1 Chấp nhận đơn kháng cáo của ông Huỳnh Văn Phương Q, hủy bản án hành chính sơ thẩm số 01/2022/HC-ST ngày 14/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện T.
Giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân huyện T giải quyết lại vụ án theo qui định của pháp luật.
2. Về án phí: ông Huỳnh Văn Phương Q không phải nộp án phí hành chính phúc thẩm, được hoàn trả tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002634 ngày 23/9/2022 của Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Long An.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 01/2022/HC-PT về khiếu kiện quyết định xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
Số hiệu: | 01/2022/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Long An |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 27/12/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về