Bản án 01/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 26 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2021/TLST- HS ngày 18 tháng 01 năm 2021 (Vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn); Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2021/QĐXXST- HS ngày 20 tháng 01 năm 2021 đối với Bị cáo:

Họ và tên: LÊ THỊ L (tên gọi khác: Không) Sinh ngày 06 tháng 3 năm 1996; tại huyện Đ, tỉnh Nghệ An.

Nơi ĐKNKTT, chỗ ở hiện nay: khu H, xã V, huyện Th, tỉnh Phú Thọ.

Nghề ngNLQ2: Lao động tự do Trình độ văn hoá: 9/12 Dân tộc: Kinh:

Giới tính: Nữ  Tôn giáo: Không.   Quốc tịch: Việt Nam:

Con ông: Lê Đình H, sinh năm 1969 và bà: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1973. Chồng: Đinh Công H1, sinh năm 1993; Con: Có 02 con (lớn sinh năm: 2016, nhỏ sinh năm: 2018).

Tiền án/tiền sự: Không.

Nhân thân (án tích, đã bị xử phạt vi phạm hành chính, đã xử lý kỷ luật): Không.

Bị cáo hiện đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại địa phương, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ NLQ1, sinh năm 2001 (vắng mặt):

Địa chỉ: xóm C, xã Th, huyện T, tỉnh Phú thọ:

+ NLQ2, sinh năm 2005 (vắng mặt):

Địa chỉ: xóm Ch, xã Th, huyện T, tỉnh Phú Thọ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Về hành vi phạm tội của Bị cáo:

Ngày 03/6/2020, Lê Thị L ký Hợp đồng mở đại lý Xổ số tại địa điểm: xã V, huyện T, tỉnh Phú Thọ với Công ty Xổ số kiến thiết Phú Thọ.

Hồi 17 giờ 30 phút ngày 24/12/2020, tổ công tác của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh Phú Thọ phát hiện, bắt quả tang Lê Thị L đang có hành vi bán số lô cho NLQ1 và NLQ2 tại khu vực ngã ba đường thuộc xóm L, xã V, huyện T, tỉnh Phú Thọ.

Cụ thể: L bán cho NLQ1 các số lô: 58 = 60 điểm, 85 = 60 điểm và 64 = 60 điểm với giá tiền 23.000đ/1 điểm, tổng số tiền NLQ1 mua số lô của L là 4.140.000đ; L bán cho NLQ2 các số lô: 69 = 30 điểm, 96 = 30 điểm với giá tiền 23.000đ/1 điểm, tổng số tiền NLQ2 mua số lô của L là 1.380.000đ. Tổng số tiền L bán số lô cho NLQ1 và NLQ2 là 5.520.000đ.

Các bên thỏa thuận hình thức đánh bạc là mua, bán số lô và tỷ lệ được thua bằng tiền như sau: Người mua số lô lựa chọn các số tự nhiên bất kỳ từ 00 đến 99 để mua, tương ứng với 01 điểm lô người mua phải trả số tiền là 23.000đ. Sau khi có kết quả Xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng ngày hôm đó, người chơi so kết quả hai số cuối của tất cả các giải. Nếu số lô người chơi đã mua trùng với hai số cuối của các giải thì người mua được lô (thắng bạc) và được L trả thưởng số tiền 80.000đ/01 điểm lô; ngược lại nếu số lô người chơi đã mua không trùng với hai số cuối các giải đã nêu trên thì bị thua bạc và mất số tiền mình đã bỏ ra mua số lô. Số tiền này L sẽ được hưởng. Thời điểm các đối tượng bị phát hiện, chưa có kết quả trúng thưởng.

Tổ công tác Công an huyện T đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ trên tay L: Số tiền 5.520.000đ, 01 tờ giấy A4 có in các chữ, số và viết tay các số: 58 = 60; 85 = 60; 64 = 60; 69 = 30; 96 = 30, 01 (một) chiếc bút bi màu đen đã qua sử dụng; thu giữ tại nơi L bán số lô: 01 chiếc ghế bằng nhựa màu đỏ có tựa lưng, 01 chiếc bàn bằng nhựa màu xanh.

Thu giữ trên tay NLQ1: 01 mảnh giấy có tin các chữ, số và viết tay chữ số: 58 = 60; 85 = 60; 64 = 60; Thu giữ trên tay NLQ2: 01 mảnh giấy có tin các chữ, số và viết tay chữ số: 69 = 30; 96 = 30.

2. Các vấn đề khác:

Ngày 25/12/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự số: 06; Quyết định khởi tố bị can số: 08; Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Lê Thị L về tội: “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (nay viết tắt là BLHS năm 2015).

Đối với NLQ1 và NLQ2 là hai đối tượng đã có hành vi đánh bạc bằng hình thức mua số lô ngày 24/12/2020 nhưng số tiền NLQ1 sử dụng vào việc đánh bạc là 4.140.000đ và NLQ2 sử dụng vào đánh bạc là 1.380.000đ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, các đối tượng chưa từng bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị kết án về hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Nên ngày 06/01/2021, Công an huyện T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với NLQ1 và NLQ2 về hành vi đánh bạc.

3. Về trích dẫn Cáo trạng/Quyết định truy tố của Viện kiểm sát:

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số: 01/QĐ-VKSTS ngày 15/01/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Phú Thọ đã truy tố Bị cáo Lê Thị L về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của BLHS năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 35 của BLHS năm 2015. Xử phạt Bị cáo Lê Thị L từ 40.000.000đ đến 60.000.000đ. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo L.

Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 125 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Bị cáo Lê Thị L theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 02 ngày 25/12/2021 của Cơ quan CSĐT Công an huyện T, tỉnh Phú Thọ.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 của BLHS năm 2015; Khoản 1, Điểm b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 5.520.000đ, do Bị cáo L phạm tội mà có; Tịch thu, tiêu hủy: 01 bút bi màu đen, 01 chiếc ghế bằng nhựa màu đỏ, 01 chiếc bàn bằng nhựa màu xanh (thu của L).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 và Danh mục án phí lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Buộc Bị cáo Lê Thị L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm .

4. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho Bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, nhận thấy như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, tỉnh Phú Thọ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Phú Thọ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những chứng cứ xác định có tội.

Tại phiên tòa hôm nay, Bị cáo Lê Thị L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Quyết định truy tố đã nêu; thừa nhận Quyết định truy tố là đúng, không oan sai. Lời khai của Bị cáo thống nhất, phù hợp với vật chứng thu được cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ của vụ án.

Như vậy đã xác định được: Hồi 17 giờ 30 phút ngày 24/12/2020, tại ngã ba đường thuộc khu L, xã V, huyện T, tỉnh Phú Thọ Lê Thị L đã thực hiện hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức bán số lô cho NLQ1 với số tiền 4.140.000đ (bốn triệu một trăm bốn mươi nghìn đồng) và NLQ2 với số tiền 1.380.000đ (một triệu ba trăm tám mươi nghìn đồng). Tổng số tiền mà L bán số lô cho NLQ1 và NLQ2 là: 5.520.000đ (năm triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng).

Bị cáo thực hiện hành vi đánh bạc trong trạng thái tinh thần bình thường, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng nhưng vì mục đích vụ lợi nên vẫn cố ý thực hiện.

Từ các nhận định trên đã đủ cơ sở xác định hành vi của Bị cáo Lê Thị L thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 Điều 321 của BLHS năm 2015:

Tại khoản 1 Điều 321 của BLHS năm 2015 quy định:

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.” [3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:

- Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của Bị cáo là nguy hiểm, đã xâm phạm đến trật tự, nếp sống văn minh của xã hội, gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Vì vậy cần được đưa ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật để răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

- Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; có nơi cư trú rõ ràng.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại Điều 52 của BLHS năm 2015.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại phiên tòa Bị cáo thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình. Do đó, Bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015.

Từ các nhận định trên, xét thấy: Bị cáo L có nhân thân tốt, phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên quyết định cho Bị cáo hình phạt tiền trên mức khởi điểm của khung hình phạt mà điều luật quy định và cũng là mức thấp theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 của BLHS năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Do áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính nên không áp dụng là hình phạt bổ sung đối với Bị cáo.

Đối với NLQ1 và NLQ2, đã có hành vi đánh bạc bằng hình thức mua số lô của Lê Thị L vào ngày 24/12/2020. Do số tiền NLQ1 sử dụng vào việc đánh bạc là 4.140.000đ và NLQ2 sử dụng vào đánh bạc là 1.380.000đ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, các đối tượng chưa từng bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị kết án về hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Nên ngày 06/01/2021, Công an huyện T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với NLQ1 và NLQ2 về hành vi đánh bạc là phù hợp. [4] Về xử lý vật chứng:

- Số tiền 5.520.000đ, là tiền do Bị cáo phạm tội mà có cần tịch thu, sung quỹ Nhà nước.

- 01 bút bi màu đen, 01 chiếc ghế bằng nhựa mà đỏ, 01 chiếc bàn bằng nhựa màu xanh Bị cáo không yêu cầu được nhận lại và là vật không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp, nên được chấp nhận.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ kết tội:

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 35 của BLHS năm 2015.

- Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị L phạm tội “Đánh bạc”.

2. Trách nhiệm hình sự, hình phạt, biện pháp tư pháp:

- Xử phạt Bị cáo Lê Thị L 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng).

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo L.

- Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 125 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Bị cáo Lê Thị L theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 02 ngày 25/12/2020 của Cơ quan CSĐT Công an huyện T, tỉnh Phú Thọ.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 của BLHS năm 2015; khoản 1, điểm b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 5.520.000đ (năm triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng), do Bị cáo L phạm tội mà có.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 bút bi màu đen, 01 chiếc ghế bằng nhựa mà đỏ, 01 chiếc bàn bằng nhựa màu xanh (thu của L).

Vật chứng đã được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T bàn giao cho Chi cục thi hành án dân sự huyện T ngày 22/01/2021.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 và Danh mục án phí lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Buộc Bị cáo Lê thị L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm .

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:01/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Ba - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;