Bản án 01/2021/HS-ST ngày 06/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CP - TỈNH GL

  BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 06/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 06 tháng 01 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện CP, tỉnh GL mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số:31/2020/TLST-HS ngày 20/11/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:31/2020/QĐXXST-HS ngày 25/12/2020 đối với bị cáo:

+ Đặng Thị Thùy U;

Sinh năm 1998, tại GL;

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Làng K 2, xã IMN, huyện CP, tỉnh GL.

Nghề nghiệp: Không;Trình độ học vấn: 10/12;

Dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Công giáo;

Con ông: Đặng Công Q, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị Kim A, sinh năm 1970; Gia đình có 3 chị em, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình;

Bị cáo không có chồng; bị cáo có 02 người con sinh năm 2014 và 2019;

Tiền án; tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03/8/2020 đến ngày 12/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt tại phiên tòa).

+ Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1989, hiện trú tại: tổ dân phố A, thị trấn IL, huyện CP, tỉnh GL ( Vắng mặt).

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện CP, tỉnh GL truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Đầu tháng 8/2020, thông qua các mối quan hệ, Đặng Thị Thùy U biết được đối tượng tên N (không rõ nhân thân, lai lịch) ở thành phố KT, tỉnh KT có bán ma túy đá nên U đã liên hệ với N để mua 02 triệu đồng ma túy đá với mục đích đem về phân nhỏ bán kiếm lời. Việc mua bán ma túy đá giữa U và N được thực hiện thông qua gửi xe ô tô khách. Sau khi mua được ma túy đá từ N, U phân nhỏ ma túy vào các đoạn ống hút nhựa, hàn kín hai đầu để bán khi có người hỏi mua. Đến khoảng 13 h30’ ngày 03/8/2020, trong lúc U đang ở nhà tại Làng K 2, xã IMN, huyện CP thì Nguyễn Văn Đ (sinh năm 1989, trú tổ dân phố A, thị trấn IL, huyện CP) đến tìm gặp U hỏi: “Còn đồ không bán cho anh hai trăm”, có nghĩa là Đ hỏi U còn ma túy đá không bán cho Đ 200.000đồng, U trả lời:

“Còn”. Sau đó, U vào phòng ngủ lấy 01 đoạn ống hút nhựa được hàn kín hai đầu đưa cho Đ rồi nhận từ Đ số tiền 200.000đồng. Cùng lúc này, hành vi mua bán giữa Đ và U bị Cơ quan CSĐT Công an huyện CP phát hiện, bắt quả tang, và thu giữ 01 đoạn ống hút nhựa được hàn kín 02 đầu và số tiền 200.000đồng. Đồng thời, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CP tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của U phát hiện thu giữ: 05 đoạn ống hút nhựa đều được hàn kín 02 đầu; 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng được hàn kín 02 đầu (U khai nhận bên trong là ma túy đá); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone; 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ và số tiền 2.700.000đồng Tại bản kết luận giám định số: 590/KLGĐ ngày 10/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh GL kết luận:

Chất màu trắng dạng tinh thể trong 01(một) đoạn ống hút nhựa, trong bì thư niêm phong, ghi “M1” gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,0650 gam.

Chất màu trắng, dạng tinh thể trong 05 (năm) đoạn ống hút nhựa và trong 01 gói nilon, trong bì thư niêm phong, ghi “M2” gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 1,0862 gam.

Tại bản cáo trạng số: 31/CTr-VKS ngày 18/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CP đã truy tố bị cáo: Đặng Thị Thùy U về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 của BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như quyết định đã nêu và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đề nghị xử phạt bị cáo Đặng Thị Thùy U mức án từ 24 đến 30 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra xác minh và tại phiên tòa bị cáo khai có hoàn cảnh khó khăn phải nuôi con nhỏ và không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

+Về vật chứng:

-Vật chứng tiêu hủy: 01 bì công văn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh GL, mặt trước ghi “M1” tại mép dán mặt sau có các dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GL”* PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của Võ Đình T, Bùi Sỹ Th và Trần Văn L; 01 bì công văn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh GL, mặt trước ghi “M2” tại mép dán mặt sau có các dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GL”* PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của Võ Đình T, Bùi Sỹ Th và Trần Văn L.

- Vật chứng tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 200.000đ (hai trăm ngàn đồng tiền ngân hàng nhà nước việt nam).

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai nhận của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đặng Thị Thùy U phạm tội như sau:

Vào khoảng đầu tháng 8/2020 Đặng Thị Thùy U đã có hành vi mua 01 gói ma túy với số tiền 2.000.000đồng về phân nhỏ bán kiếm lời. Đến khoảng 13h30’ ngày 03/8/2020 tại nhà của U ở Làng K 2, xã IMN, huyện CP, trong lúc bị cáo đang bán ma túy cho Nguyễn Văn Đ với số tiền 200.000đồng thì bị Công an huyện CP bắt giữ quả tang.

Tại bản kết luận giám định số: 590/KLGĐ ngày 10/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh GL kết luận:

Chất màu trắng dạng tinh thể trong 01(một) đoạn ống hút nhựa, trong bì thư niêm phong, ghi “M1” gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,0650 gam.

Chất màu trắng, dạng tinh thể trong 05 (năm) đoạn ống hút nhựa và trong 01 gói nilon, trong bì thư niêm phong, ghi “M2” gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 1,0862 gam.

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo Đặng Thị Thùy U là nguy hiểm cho xã hội, đã vi phạm vào đường lối chính sách của Đảng và pháp luật hình sự của nhà nước ta trong việc phòng chống, ngăn ngừa hiểm họa ma túy, bài trừ các tệ nạn xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý các chất gây nghiện của nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương. Khi thực hiện hành vi bị cáo nhận thức được việc mua bán trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm, bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, trách nhiệm hình sự, nhưng vẫn cố ý phạm tội. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện CP truy tố bị cáo Đặng Thị Thùy U về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét nhân thân bị cáo thấy rằng: Bị cáo đã học hết lớp 10/12 biết được tác hại của ma túy, tuổi đời còn trẻ, có sức khỏe và là mẹ đơn thân nuôi hai con nhỏ, nhưng không rèn luyện bản thân, tu dưỡng đạo đức, chăm chỉ lao động làm ăn lương thiện để có thu nhập chính đáng nuôi sống bản thân và làm gương cho các con sau này, chỉ vì muốn kiếm lợi nhuận bằng cách mua bán trái phép chất ma túy để có tiền nhanh mà bị cáo bất chấp coi thường pháp luật. Hơn nữa việc đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy trong giai đoạn hiện nay đã trở thành cuộc chiến toàn cầu không chỉ một quốc gia nào trên thế giới. Vì vậy cần áp dụng cho bị cáo một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, một mình nuôi hai con nhỏ, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra xác minh và tại phiên tòa bị cáo khai có hoàn cảnh khó khăn phải nuôi con nhỏ và không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với hành vi mua trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn Đ về sử dụng không đủ dấu hiệu để cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự, nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện CP đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nên không đề cập đến phần quyết định của bản án.

Đối với đối tượng tên N là người đã bán ma túy cho Đặng Thị Thùy U, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lý lịch, nên chưa có căn cứ để xử lý. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ khi nào có đủ căn cứ thì xử lý sau, nên không đề cập đến phần quyết định của bản án.

+Về vật chứng:

-Vật chứng tiêu hủy: 01 bì công văn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh GL, mặt trước ghi “M1” tại mép dán mặt sau có các dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GL” * PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của Võ Đình T, Bùi Sỹ Th và Trần Văn L; 01 bì công văn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh GL, mặt trước ghi “M2” tại mép dán mặt sau có các dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GL”* PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của Võ Đình T, Bùi Sỹ Th và Trần Văn L.

- Vật chứng tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 200.000đ (hai trăm ngàn đồng tiền ngân hàng nhà nước việt nam).

Đối với chiếc điện thoại di động Đặng Thị Thùy U sử dụng để liên lạc mua ma túy với đối tượng N, vào ngày 02/8/2020, trong quá trình đi chơi U đã làm rơi mất Cơ quan điều tra Công an huyện CP không thu giữ được, nên không đề cập đến phần quyết định của bản án.

-01 điện thoại Iphone màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ và số tiền 2.700.000đồng không liên quan đến hành vi phạm tội của Đặng Thị Thùy U, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện CP đã trả lại cho bị cáo U. Nên không đề cập đến phần quyết định của bản án.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện CP, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CP, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[6] Về án phí: Bị cáo Đặng Thị Thúy U phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo: Đặng Thị Thúy U tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

2/ Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo: Đặng Thị Thúy U: 24 (hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án được trừ những ngày bị cáo đã bị tạm giữ trước đây (từ ngày 03/8/2020 đến ngày 12/8/2020).

3/ Về vật chứng: Áp dụng khoản 2 điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015:

- Vật chứng tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 200.000đ (hai trăm ngàn đồng tiền ngân hàng nhà nước việt nam).

-Vật chứng tiêu hủy: 01 bì công văn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh GL, mặt trước ghi “M1” tại mép dán mặt sau có các dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GL”* PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của Võ Đình T, Bùi Sỹ Th và Trần Văn L; 01 bì công văn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh GL, mặt trước ghi “M2” tại mép dán mặt sau có các dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GL”* PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của Võ Đình T, Bùi Sỹ Th và Trần Văn L.

(Vật chứng tịch thu, nộp ngân sách nhà nước và tiêu hủy theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/11/2020 giữa Cơ quan CSĐT và Chi cục thi hành án dân sự huyện CP, tỉnh GL).

4/ Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Buộc bị cáo: Đặng Thị Thùy U phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

5/ Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tU án (06/01/2021) lên Toà án nhân dân tỉnh GL để xin xét xử phúc thẩm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc từ ngày niêm yết công khai tại Ủy ban nhân dân xã, phường nơi cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

  Bản án 01/2021/HS-ST ngày 06/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Pưh - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;