Bản án 01/2020/LĐ-PT ngày 21/02/2020 về tranh chấp trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động 

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY N

BẢN ÁN 01/2020/LĐ-PT NGÀY 21/02/2020 VỀ TRANH CHẤP TRỢ CẤP KHI CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG 

Ngày 21 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây N xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 04/2019/TLPT-LĐ ngày 04 tháng 12 năm 2019 về Tranh chấp về trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động.

Do bản án lao động sơ thẩm số 03/2019/LĐ-ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Tây N, tỉnh Tây N bị kháng cáo. Theo quyết Đ đưa vụ án ra xét xử số 05/2019/QĐPT-LĐ ngày 24 tháng 12 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Khắc H, sinh năm 1959. Địa chỉ: Số 54, hẻm 2, Đ Nguyễn Trãi, khu phố 5, phường 4, thành phố Tây N, tỉnh Tây N; vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: Chị Nguyễn Thụy H Đ, sinh năm 1977. Địa chỉ: Số 58, Đ Lý Thường Kiệt, ấp Hiệp Đ, xã Hiệp T, huyện Hòa T, tỉnh Tây N (Văn bản ủy quyền ngày 08-7-2019); vắng mặt; có đơn xin đề nghị xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Công ty Cổ phần Đầu tư và xây dựng công trình A. Địa chỉ trụ sở: Số 187, Đ 30/4, phường 2, thành phố Tây N, tỉnh Tây N.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1973, chức vụ: Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư và xây dựng công trình A; có mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: Anh Vương S H, sinh năm 1984. Địa chỉ: Số 72, Đ Trần Phú, khu phố N T, phường N S, thành phố Tây N, tỉnh Tây N (Văn bản ủy quyền ngày 12-9-2019); có mặt.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện đề ngày 19 tháng 6 năm 2019, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Khắc H và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn - chị Nguyễn Thụy H Đ trình bày:

Nguyên ông Nguyễn Khắc H có làm việc tại Phân khu quản lý Đ bộ A – là doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng cục Đ bộ Việt Nam, nay là Công ty Cổ phần đầu tư và xây dựng công trình A (gọi tắt là Công ty A) từ tháng 7-1993 đến tháng 4-2019, hợp đồng lao động không xác Đ thời hạn. Trước khi ông Nguyễn Khắc H chuyển đến làm việc tại Phân Khu quản lý Đ bộ A, ông H có thời gian phục vụ trong quân đội và các đơn vị Nhà nước khác, cụ thể:

- Tháng 11-1977 đến tháng 9-1984: Ông H là bộ đội và làm nhân viên tài vụ tại Quân đoàn 4, Sư đoàn 5, T đoàn 141 thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam;

- Từ tháng 10-1984 đến tháng 6-1993: Ông H được thuyên chuyển công tác đến Trạm thực phẩm công nghệ Tây N, thuộc Công ty thực phẩm công nghệ Bộ thương mại. Tháng 7-1993, ông H được thuyên chuyển công tác đến Phân khu quản lý Đ bộ A.

Ngày 20-02-2019, do có vấn đề về sức khỏe nên ông H có làm đơn xin chấm dứt hợp đồng lao động với công ty A theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật lao động năm 2012. Đến ngày 25-4-2019, Công ty A đã ra Quyết Đ số 206/QĐ CTYA – TCHCHT về việc chấm dứt hợp đồng lao động với ông H kể từ ngày 01-5-2019 và chi trả tiền trợ cấp thôi việc cho ông H trong thời gian từ tháng 7-1993 đến tháng 12-2008 (đã trừ đi thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp), tiền lương tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi thôi việc là 12.000.000 đồng, do đó, số tiền trợ cấp thôi việc là: 12.000.000 đồng/2 x 16 năm = 96.000.000 đồng. Ông H đã nhận số tiền này.

Như vậy, khoảng thời gian làm việc của ông H tại các đơn vị nhà nước trước đó khoảng 16 năm (từ tháng 11-1977 đến tháng 6-1993), Công ty A không chi trả trợ cấp thôi việc cho ông H. Công ty A không có sự thống nhất trong cách chi trả trợ cấp thôi việc cho từng người lao động, có rất nhiều trường hợp xin chấm dứt hợp đồng lao động tương tự như ông H nhưng vẫn được chi trả trợ cấp thôi việc cho thời gian làm việc trước năm 1993, cụ thể là các ông Nguyễn Đình Đoan, Lê Hùng S, Lê Đức Liên.

Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 Thông tư số 47/2015/TT – BLĐTBXH ngày 16-11-2015 của Bộ Lao động thương binh và xã hội hướng dẫn thực hiện một số điều về hợp đồng, kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất của Nghị định số 05/2015/NĐ – CP ngày 12 tháng 01 năm 2015 của chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của bộ luật lao động, ông Nguyễn Khắc H khởi kiện yêu cầu Công ty A chi trả trợ cấp thôi việc cho ông H đối với khoảng thời gian làm việc từ tháng 11-1977 đến tháng 6 -1993 là 96.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của ông H chỉ yêu cầu công ty A chi trả tiền trợ cấp thôi việc cho ông H là 93.000.000 đồng. Ngoài ra, ông H không có ý kiến và yêu cầu gì khác.

Tại bản tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo pháp luật của bị đơn – ông Nguyễn Thanh T và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn – anh Vương S H trình bày:

Ông Nguyễn Khắc H là nhân viên của Công ty A (tiền thân là Phân khu quản lý Đ bộ A) từ tháng 6-1993 đến tháng 4-2019. Giữa Công ty A và ông Nguyễn Khắc H có ký 05 Hợp đồng lao động sau đây:

- Hợp đồng lao động số 215/LĐTL ngày 28-6-1993, hợp đồng lao động có thời hạn, do ông Nguyễn Văn Xá đại diện theo pháp luật của Phân khu quản lý Đ bộ A (tiền thân của Công ty A) ký;

- Hợp đồng lao động số 01/CTYCPA – TCHC ngày 01-01-2007, hợp đồng lao động không xác Đ thời hạn, do ông Lê Ngọc Khánh đại diện pháp luật của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước SCIC ký, thời điểm này Công ty A thực hiện cổ phần hóa nhưng vẫn do nhà nước nắm cổ phần chi phối;

- Hợp đồng lao động số 03/CTYCPA – TCHCTH ngày 01-5-2015, hợp đồng lao động không xác Đ thời hạn, do ông Phan Thanh H đại diện pháp luật ký;

- Hợp đồng lao động số 40/CTYCPA – TCHC ngày 01-01-2016, hợp đồng lao động không xác Đ thời hạn, do ông Nguyễn Quang Hào đại diện pháp luật ký;

- Hợp đồng lao động số 100/CTYCPA – TCHCTH ngày 01-7-2017, hợp đồng lao động không xác Đ thời hạn, do ông Nguyễn Thanh T đại diện pháp luật ký, thời điểm này Công ty A đã được cổ phần hóa 100% vốn tư nhân.

Theo quy định thì đến ngày 01-8-2019, ông H nghỉ hưu. Tuy nhiên, ngày 20-02-2019 ông H gửi đơn xin chấm dứt hợp đồng lao động từ ngày 01-5-2019 và được công ty A đồng ý. Ngày 25-4-2019, Công ty A ra Quyết Đ số 206/QĐ CTYA – TCHCHT về việc chấm dứt hợp đồng lao động với ông H kể từ ngày 01-5-2019 và chi trả tiền trợ cấp thôi việc cho ông H tính từ tháng 7-1993 đến tháng 12-2008 (đã trừ đi thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp), tiền lương tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi thôi việc là 12.000.000 đồng, do đó, số tiền trợ cấp thôi việc ông H được nhận là 96.000.000 đồng.

Đối với khoảng thời gian ông H phục vụ trong quân đội và làm việc tại các đơn vị nhà nước trước khi thuyên chuyển công tác về công ty A thì công ty A thống nhất nhưng không đồng ý chi trả tiền trợ cấp thôi việc vì đây không phải là thời gian ông H làm việc thực tế cho công ty A; đồng thời các khoản có liên quan giữa công ty A và ông H đã được giải quyết vào ngày 27-4-2019.

Đối với trường hợp chi trả trợ cấp thôi việc cho các ông Nguyễn Đình Đoan, Lê Hùng S, Lê Đức Liên: Thời điểm đó Công ty A có chủ trương trong vòng 01 năm sau khi mua lại công ty A thì những ai còn thời hạn làm việc tại công ty trên 01 năm mới tới tuổi hưu mà có nhu cầu xin nghỉ thì công ty đồng ý và khuyến khích và hỗ trợ không điều kiện. Do ông H không thuộc trường hợp này nên không được công ty A hỗ trợ mà chỉ giải quyết chi trả trợ cấp thôi việc theo quy Đ.

Căn cứ Điều 48 Bộ luật Lao động năm 2012; Khoản 5 Điều 1 Nghị định 148/2018/NĐ-CP ngày 24-10-2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2015 và điểm b khoản 4 Điều 14 Nghị định số 05/2015/NĐ- CP, Công ty A đã chi trả trợ cấp thôi việc cho ông H đúng quy định pháp luật nên nay Công ty A không đồng ý trả số tiền trợ cấp thôi việc cho ông H từ tháng 11 năm 1977 đến tháng 6 năm 1993, tổng cộng 15 năm 10 tháng (làm tròn 16 năm) làm việc là 96.000.000 đồng.

Công ty cho rằng tại Điều 2 Quyết Đ số 106/XNK.TC ngày 12-6-1993 của Giám đốc Công ty Xuất nhập khẩu thực phẩm thể hiện ông Nguyễn Khắc H được thanh toán tiền lương và các quyền lợi khác theo chế độ hiện hành của Nhà nước và quy định của công ty đến hết ngày 30-6-1993 nên Công ty A chỉ chi trả trợ cấp thôi việc cho ông H từ tháng 7-1993 đến tháng 12-2008 là đúng quy Đ. Do đó, công ty A không đồng ý chi trả cho ông H số tiền trợ cấp thôi việc là 93.000.000 đồng. Ngoài ra, Công ty A không có ý kiến và yêu cầu gì khác.

Bản án lao động sơ thẩm số 03/2019/LĐ-ST ngày 23 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Tây N, tỉnh Tây N đã tuyên xử:

Căn cứ vào: Các Điều 36, 37, 48, 202 của Bộ luật Lao động; Điều 14, Khoản 2 Điều 38 của Nghị định số 05/2015/NĐ- CP ngày 12-01-2015 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động;

Các Điều 8, 9 của Thông tư số 47/2015/TT – BLĐTBXH ngày 16-11- 2015 của Bộ Lao động thương binh và xã hội hướng dẫn thực hiện một số điều về hợp đồng, kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất của Nghị định số 05/2015/NĐ- CP ngày 12-01-2015;

Các Điều 12, 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện: “Tranh chấp về trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động” của ông Nguyễn Khắc H đối với Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng công trình A.

Buộc Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng công trình A trả cho ông Nguyễn Khắc H số tiền trợ cấp thôi việc còn lại là 93.000.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết Đ về án phí, các quyền thi hành án và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 05/11/2019, ông Nguyễn Thanh T có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Khắc H.

Ý kiến của Kiểm sát viên – đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây N:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đã tuân thủ đúng quy định pháp luật trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Công ty cổ phần Đầu tư và xây dựng công trình A. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 03/2019/LĐ-ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Tây N.

XÉT THẤY

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận Đ:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thụy H Đ là người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Khắc H có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là phù hợp theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Ông Nguyễn Khắc H và Công ty cổ phần Đầu tư và xây dựng công trình A thống nhất về khoảng thời gian ông H phục vụ trong quân đội chuyển ngành về làm việc tại công ty xuất nhập khẩu thực phẩm thuộc tổng Công ty Thực phẩm (Bộ thương mại), thuyên chuyển công tác về công ty A nhưng công ty chỉ đồng đồng ý thanh toán cho ông H trợ cấp thôi việc là 96.000.000 đồng (trong thời gian từ tháng 7-1993 đến tháng 12-2008); không đồng ý chi trả tiền trợ cấp thôi việc cho ông H trong khoảng thời gian từ tháng 11-1977 đến tháng 6 -1993 là 93.000.000 đồng vì đây không phải là thời gian ông H làm việc thực tế cho công ty A.

[3] Xét kháng cáo của Công ty cổ phần Đầu tư và xây dựng công trình A thấy rằng:

[3.1] Ông Nguyễn Khắc H trước khi chuyển về công tác tại Công ty A (tiền thân là Phân khu quản lý Đ bộ A) vào tháng 7-1993; ông H có thời gian làm việc ở đơn vị thuộc lực lượng vũ trang và các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước cụ thể: ông H có thời gian công tác trong quân đội tại Quân đoàn 4, Sư đoàn 5, T đoàn 141 thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam từ tháng 11 năm 1977 đến tháng 9-1984; đến ngày 02/10/1984 ông H được chuyển ngành về Công ty xuất nhập khẩu thực phẩm thuộc tổng công ty Thực phẩm Bộ thương mại (bút lục 34); ngày 12/6/1993 ông H được thuyên chuyển công tác đến Phân khu quản lý Đ bộ A (bút lục 32).

[3.2] Trong qúa trình làm việc tại Công ty A (tiền thân là Phân khu quản lý Đ bộ A) từ tháng 6-1993 đến tháng 4-2019, giữa Công ty A và ông Nguyễn Khắc H có ký kết 05 Hợp đồng lao động sau:

Hợp đồng lao động số 215/LĐTL ngày 28-6-1993, có thời hạn; Hợp đồng lao động số 01/CTYCPA – TCHC ngày 01-01-2007, không xác Đ thời hạn; Hợp đồng lao động số 03/CTYCPA – TCHCTH ngày 01-5-2015, không xác Đ thời hạn; Hợp đồng lao động số 40/CTYCPA – TCHC ngày 01-01-2016, không xác Đ thời hạn; Hợp đồng lao động số 100/CTYCPA – TCHCTH ngày 01-7-2017, không xác Đ thời hạn.

[3.3] Công ty A kháng cáo cho rằng tại Điều 2 Quyết Đ số 106/XNK.TC ngày 12-6-1993 của Giám đốc Công ty Xuất nhập khẩu thực phẩm thể hiện ông Nguyễn Khắc H được thanh toán tiền lương và các quyền lợi khác theo chế độ hiện hành của Nhà nước và quy định của công ty đến hết ngày 30-6-1993 nên Công ty A chỉ chi trả trợ cấp thôi việc cho ông H từ tháng 7-1993 đến tháng 12-2008 (trừ đi thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp) nhưng công ty A không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh ông H đã được nhận tiền trợ cấp thôi việc tính đến hết ngày 30-6-1993.

[3.4] Mặt khác căn cứ vào quyết Đ số 10/84/ QĐ ngày 02 tháng 10 năm 1984 của T đoàn trưởng Quân đoàn 4, Sư đoàn 7 T đoàn 141 và Quyết Đ số 106/XNK.TC ngày 12-6-1993 của Giám đốc Công ty Xuất nhập khẩu thực phẩm, ông H chỉ được hưởng chế độ chuyển ngành, thanh toán tiền lương và các quyền lợi khác chưa được hưởng tiền trợ cấp thôi việc (bút lục 08,13).

[3.5] Theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật Lao động và Điều 14 của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12-01-2015, tiền trợ cấp thôi việc của ông Nguyễn Khắc H được tính như sau:

Thời gian làm việc thực tế của ông H được tính từ tháng 11-1977 đến tháng 12-2008 (trừ đi thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp từ tháng 01-2009 đến ngày 30- 4-2019) là 31 năm 01 tháng, làm tròn là 31,5 năm, tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của ông H trước khi thôi việc tại công ty A là 12.000.000 đồng/tháng.

31,5 năm x 12.000.000 đồng/2 = 189.000.000 đồng. Ông H đã được nhận số tiền 96.000.000 đồng nên Công ty A còn phải chi trả cho ông H số tiền trợ cấp thôi việc còn lại là 93.000.000 đồng.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H đối với yêu cầu buộc Công ty A trả số tiền 93.000.000 đồng là có căn cứ.

Từ những phân tích trên, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng công trình A, chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây N; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng công trình A không được chấp nhận nên công ty phải chịu tiền án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng công trình A.

Giữ nguyên bản án lao động sơ thẩm số 03/2019/LĐ-ST ngày 23 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Tây N, tỉnh Tây N.

Căn cứ các Điều 36, 37, 48, 202 của Bộ luật Lao động; Điều 14, Khoản 2 Điều 38 của Nghị định số 05/2015/NĐ- CP ngày 12-01-2015 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động; Các Điều 8, 9 của Thông tư số 47/2015/TT – BLĐTBXH ngày 16-11-2015 của Bộ Lao động thương binh và xã hội hướng dẫn thực hiện một số điều về hợp đồng, kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất của Nghị định số 05/2015/NĐ- CP ngày 12-01-2015; Các Điều 12, 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện: “Tranh chấp về trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động” của ông Nguyễn Khắc H đối với Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng công trình A.

Buộc Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng công trình A trả cho ông Nguyễn Khắc H số tiền trợ cấp thôi việc còn lại là 93.000.000 đồng (chín mươi ba triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2, Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

2. Về án phí:

2.1 Về án phí lao động sơ thẩm: Ông Nguyễn Khắc H được miễn nộp tiền án phí lao động sơ thẩm. Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng công trình A chịu 2.790.000 đồng (hai triệu bảy trăm chín mươi nghìn đồng).

2.2. Về án phí lao đồng phúc thẩm: Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng công trình A phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0001922 ngày 05-11-2019, của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tây N, tỉnh Tây N. Ghi nhận đã nộp xong.

3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

518
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2020/LĐ-PT ngày 21/02/2020 về tranh chấp trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động 

Số hiệu:01/2020/LĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 21/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;