TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 12 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2020/TLST – HS, ngày 28 tháng 10 năm 2020 theo F định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2020/QĐXXST – HS, ngày 02 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
- Đinh Trọng T (tên gọi khác: không), sinh ngày 21/01/2006 tại huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú tại bản N, xã G, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Học sinh. Trình độ học vấn: 8/12. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Mường. Tôn giáo, đảng phái, đoàn thể: Không. Con ông Đinh Văn Q, sinh năm 1984 và con bà Lường Thị P, sinh năm 1988 (bố mẹ đã ly hôn). Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “cấm đi khỏi nơi cư trú”, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo: ông Đinh Văn Q, sinh năm 1984; Địa chỉ: Bản N, xã G, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Phương Vũ, sinh năm 1965; Số thẻ luật sư: 13049/LS, do Liên đoàn luật sư Việt Nam cấp ngày 11/4/2018 – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Sơn La. Có mặt.
* Đại diện Nhà trường nơi bị cáo đang học tập: Trường Trung học cơ sở G, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La – Đại diện: ông Nguyễn Văn D, Hiệu trưởng Nhà trường. Có mặt.
* Bị hại: anh Đinh Công A, sinh năm 2005; Địa chỉ: Bản C, xã G, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Có mặt.
Người đại diện hợp pháp cho người bị hại: ông Đinh Văn M (là bố đẻ), sinh năm 1985; Địa chỉ: Bản C, xã G, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Có mặt.
* Người làm chứng:
1. Anh Đinh Đức B, sinh năm 2006; Địa chỉ: Bản C, xã G, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Có mặt.
Người đại diện hợp pháp: anh Đinh Văn W, sinh năm 1990 (là cậu ruột);
Địa chỉ: Bản C, xã G, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Có mặt.
2. Anh Đinh Văn N, sinh năm 2006; Địa chỉ: Bản N, xã G, huyện, tỉnh Sơn La. Có mặt.
Người đại diện hợp pháp: Bà Đinh Thị K, sinh năm 1980 (là mẹ đẻ); Địa chỉ: Bản N, xã G, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Có mặt.
3. Anh Lường Văn D, sinh năm 2006; Địa chỉ: Bản N, xã G, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Có mặt.
Người đại diện hợp pháp: Bà Lò Thị O, sinh năm 1980 (là mẹ đẻ); Địa chỉ: Bản N, xã G, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Có mặt.
4. Anh Đinh Trọng E, sinh năm 2004; Địa chỉ: Bản C, xã G, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Có mặt.
Người đại diện hợp pháp: Bà Lò Thị P, sinh năm 1980 (là mẹ đẻ); Địa chỉ: Bản C, xã G, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Có mặt.
5. Anh Đinh Công F, sinh năm 2004; Địa chỉ: Bản C, xã G, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Có mặt.
Người đại diện hợp pháp: ông Đinh Văn X, sinh năm 1986 (là cậu ruột);
Địa chỉ: Bản C, xã G, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Có mặt.
6. Anh Lê Trần G, sinh năm 2004; Địa chỉ: Bản C, xã G, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Vắng mặt có lý do.
Người đại diện hợp pháp: Bà Vũ Thị Z, sinh năm 1984 (là mẹ đẻ); Địa chỉ: Bản C, xã G, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Vắng mặt có lý do.
7. Nguyễn Văn H, sinh năm 1994; Địa chỉ: Bản N, xã G, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 24/6/2020 Đinh Đức B, sinh ngày 10/4/2006 trú tại bản C, xã G, huyện Phù Yên có mâu thuẫn, xích mích từ trước với Đinh Văn C, sinh ngày 17/11/2006 trú tại bản N, xã G, huyện Phù Yên. Trong lúc đi học B kể với Đinh Trọng E và Đinh Công F, cùng sinh năm 2004 ở bản C, xã G, huyện Phù Yên về việc B có mâu thuẫn với C. B bảo F và E sau khi tan học đến chờ ở cổng Trường cấp 2 xã G để đánh nhau với C. Khoảng 11h cùng ngày sau khi tan học B, E và F đến cổng trường Cấp II G mục đích gặp C để đánh nhau, khi đi đến cổng trường cấp II G thì gặp Đinh Công A, sinh năm 2005 ở bản C, xã G. B, E, F rủ A tham gia đánh nhau A đồng ý. B, E, F, A đứng đợi khoảng 10 phút thì có Đinh Trọng T; Đinh Văn C và Lường Văn N đều sinh năm 2006 ở bản N, xã G, huyện Phù Yên tan học về đi ra cổng trường. E bảo “Mấy thằng kia ở lại nói chuyện đã” nghe vậy T, C và N dừng lại. Lúc này nhóm B, E, F, A gọi nhóm của N, C và T xuống khu vực ngã ba đường đi vào bản N để đánh nhau. Xuống đến ngã ba N vứt ba lô xuống bờ rào. E đi đến hỏi N “Hôm trước mày đánh thằng B à?” N trả lời “Tao không được đánh, thằng C đánh thôi”. B chỉ tay vào C và nói “Thằng này này”. C bảo “Tại mày bóp cổ tao trước nên tao mới đánh lại”. Lúc này, C nhặt một viên gạch ba vanh giơ lên và nói “Chúng mày vào luôn đi cho nóng”. Thấy C cầm viên gạch nên E dùng tay đẩy vào ngực C làm viên gạch rơi xuống đất. T thấy E và F đánh nhau với C nên vào can ngăn. Do sợ bị đánh T và C bỏ chạy vào hướng bản N. Thấy C và T bỏ chạy N sợ bị đánh nên chạy ra chỗ cặp sách lấy trong cặp ra 01 con dao (loại dao mèo, chiều dài 34cm) nhằm mục đích gây thương tích cho nhóm B, E, F và A. Đúng lúc này thì có anh Nguyễn Văn H (Sinh năm 1994, nơi cư trú tại bản N, xã G, huyện Phù Yên) đi qua thấy N cầm dao nên anh H quát bảo N dừng lại. N bảo “Anh H à, để em xử bọn này” và cầm dao lao về phía B, E, F, A. Thấy N cầm dao đuổi nên E, F, B chạy về phía ngã ba G. Còn A chạy vào hướng bản N. A chạy theo hướng của C và T. Nhìn thấy A chạy vào cùng hướng, do sợ A đuổi đánh nên C nhặt một hòn đá màu vàng nâu ném về phía A nhưng không trúng. T nhặt một mảnh viên gạch xi măng màu xám ném trúng mắt bên phải làm A bị ngã đập mặt xuống đường bê tông và bất tỉnh được mọi người đưa đi cấp cứu.
Sau khi sự việc xảy ra, gia đình anh Đinh Công A có đơn trình báo gửi tới cơ quan công an đề nghị giải quyết.
Ngày 08/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Phù Yên đã ra quyết định trưng cầu giám định số 118; Trưng cầu: Trung tâm pháp y tỉnh Sơn La với nội dung yêu cầu giám định: “Thương tích trên cơ thể của Đinh Công A”.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 156/TgT, ngày 15/7/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Sơn La kết luận: “1. Dấu hiệu chính qua giám định: Vết biến đổi rối loạn sắc tố da vùng mặt (xếp: 03%); Sẹo vết thương phần mềm đuôi cung lông mày phải (xếp: 03%); Sẹo vết thương phần mềm chân mai tóc phải (xếp: 03%); Sẹo vết thương phần mềm ngang mi dưới mắt phải (xếp: 06%); Sẹo vết thương phần mềm bàn tay trái (xếp: 01%); Gẫy xương gò má – cung tiếp phải can tốt (xếp: 09%); Vỡ thành xoang hàm phải, còn dụng cụ kết hợp xương, không di lệch (xếp: 08%; Vỡ xương bờ ngoài ổ mắt phải, có ảnh hưởng thị lực (xếp: 21%). 2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là: 44% (Bốn mươi bốn phần trăm). 3. Cơ chế hình thành thương tích: Chấn thương vùng mặt, tay của Đinh Công A là do tác động trực tiếp của vật cứng gây nên”.
Sau khi xảy ra vụ việc, Cơ quan CSĐT Công an huyện Phù Yên đã tiến hành khám nghiệm hiện trường nơi xảy ra vụ việc, vụ án. Kết quả khám nghiệm hiện trường đã thu giữ: 01 con dao bằng kim loại, loại dao nhọn một lưỡi sắc, dài 34cm x điểm rộng nhất của bản dao 4,1cm, cũ qua sử dụng; 01 mảnh viên gạch bê tông (xi măng) màu xám, không rõ hình, kích thước 10,5cm x 5,5cm x 7cm, có khối lượng 0.28kg; 01 hòn đá tự nhiên màu vàng nâu không rõ hình, kích thước 11cm x 9cm x 3,5cm, có khối lượng 0.4kg; 01 mảnh vỡ gạch bê tông màu xám, kích thước 17,5cm x 7cm x 13cm, một đầu bằng, một đầu bị vỡ nham nhở;
01 mảnh bê tông không rõ hình màu xám, kích thước 10cm x 14cm x 5cm, góc cạnh nham nhở; 01 mảnh bê tông không rõ hình màu xám, kích thước 7cm x 8cm x 9cm, góc cạnh nham nhở.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Đinh Trọng T khai nhận hành vi phạm tội như sau: Ngày 24/6/2020, sau khi tan học đi về, bị cáo và Đinh Văn C, Lường Văn N đi ra đến cổng trường thì gặp B, E, F, A đứng đợi ở công trường, tại đây E nói: “mấy thằng kia ở lại nói chuyện đã”, nghe thấy vậy bị cáo T cùng C và N dừng lại, lúc này nhóm của E gọi nhóm của N, C và T xuống khu vực ngã ba đường vào bản N để đánh nhau, sau khi xảy ra xô sát, do sợ bị đánh nên bị cáo T và C chạy vào hướng bản N, một lúc sau thấy A chạy vào hướng bản N, do sợ A đuổi đánh nên C nhặt một hòn đá ném nhưng không trúng A. T nhặt một mảnh viên gạch xi măng màu xám ném trúng mắt bên phải làm A bị ngã đập mặt xuống đường bê tông.
Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đinh Trọng T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
Người bị hại anh Đinh Công A sau khi bị T ném gạch vào mặt đã được đưa vào cấp cứu tại Trạm y tế xã G, do thương tích nặng nên được chuyển tuyến xuống Bệnh viện răng hàm mặt Trung ương để điều trị.
Người đại diện hợp pháp của người bị hại anh Đinh Công A là ông Đinh Văn M (bố đẻ anh A) trình bày: Sau khi anh A bị xâm phạm sức khỏe, gia đình đã đưa anh A đi điều trị tại bệnh viện nhiều ngày với chi phí lớn, gia đình bị cáo T, gia đình anh C, anh N, anh B, anh E, anh F đã tự nguyện bồi thường, hỗ trợ cho gia đình ông tổng số tiền là 24.000.000,đ (Hai mươi tư triệu đồng) để bồi thường tổn thất về sức khỏe, tinh thần cho anh A, trong đó gia đình bị cáo T đã tự nguyện bồi thường số tiền số tiền 10.000.000,đ (Mười triệu đồng), với chi phí đã chi trả cho việc cứu chữa anh A và sau này còn phải đi khám lại, đi mổ để rút nẹp ở gò má nên trong quá trình điều tra, truy tố ông M yêu cầu gia đình bị cáo T phải bồi thường số tiền 90.000.000,đ, được trừ đi số tiền 24.000.000,đ đã nhận, ông M yêu cầu gia đình bị cáo T phải tiếp tục bồi thường số tiền là 66.000.000,đ (Sáu mươi sáu triệu đồng). Tuy nhiên tại phiên tòa, ông M thay đổi ý kiến và đã thỏa thuận với đại diện gia đình bị cáo ông M yêu cầu gia đình bị cáo bồi thường số tiền 30.000.000,đ (Ba mươi triệu đồng) gồm các khoản tổn thất về tinh thần, phục hồi sức khỏe và các khoản đi lại, chữa trị cho cháu T.
Đối với trách nhiệm hình sự: ông M để nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo vì bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ bỏ nhau, bố đẻ đi làm thuê xa nhà, bị cáo hiện ở với ông bà nội đã già yếu, bị cáo đang độ tuổi ăn học, ông M đề nghị đưa bị cáo T vào trường giáo dưỡng để bị cáo vừa được học tập, lao động vừa được giáo dục để trở thành người công dân tốt cho xã hội.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm bào chữa: Bị cáo phạm tội khi đang là vị thành niên, chưa phát triển đầy đủ thể chất và tinh thần, chưa được giáo dục đầy đủ về kỹ năng sống và tâm sinh lý trong nhà trường, thiếu sự quan tâm của gia đình, phạm tội lần đầu, không có tiền án, tiền sự và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội đã tích cực bồi thường cho bị hại để khắc phục hậu quả, gia đình bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, Tuy nhiên do bị cáo có hoàn cảnh chưa được dạy dỗ, sự quan tâm chu đáo của gia đình, hành vi phạm tội có tính chất nghiêm trọng, nhân thân và môi trường sống không có tính chất nghiêm khắc, bị cáo thường xuyên đi lại với những đối tượng xấu, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt mà áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng là một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ để bị cáo được học tập, học nghề, lao động, sinh hoạt giáo dục để trở thành người công dân có ích cho xã hội.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo ông Đinh Văn Q trình bày: Bị cáo phạm tội khi chưa đủ tuổi trưởng thành, chưa có đầy đủ nhận thức, hiểu biết xã hội và kỹ năng sống, bị cáo phạm tội do sự tác động của môi trường sống và có lỗi của gia đình quản lý, giám sát, giáo dục chưa đầy đủ. Sau khi bị cáo T phạm tội gia đình đã cố gắng tích cực bồi thường một phần cho cháu A và sẽ tiếp tục cố gắng thu xếp bồi thường tiếp số tiền 30.000.000,đ cho người bị hại, bị cáo đã rất hối hận, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với hành vi của mình, bị cáo tuổi đời còn trẻ, do đó mong muốn Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được tiếp tục học tập, lao động, trở thành người công dân tốt cho xã hội.
Đại diện Nhà trường nơi bị cáo học tập – ông Nguyễn Văn D – Hiệu trưởng Trường trung học cơ sở G trình bày: Sau khi sự việc xảy ra, Ban giám hiệu Nhà trường đã mở phiên họp với các giáo viên liên quan, ban phụ huynh, các học sinh tham gia đánh nhau cùng đại diện bố mẹ để giải quyết vụ việc, Nhà trường cũng đã ban hành các hình thức kỷ luật đối với các học sinh tham gia đánh nhau ngày 24/6/2020.
Đối với học sinh Đinh Trọng T là người trực tiếp ném gạch gây ra thương tích cho em A, học sinh T là học sinh của Trường, em có học lực trung bình, tuy nhiên hoàn cảnh của em T khó khăn, hiện đang ở cùng ông bà nội đã già yếu, bố mẹ em T ly hôn, mẹ đi lấy chồng ở nơi khác, bố đi làm ăn xa nhà, ngoài giờ học ở trường thì ít khi có sự quản lý chặt chẽ ở gia đình, trong quá trình học ở trường em T cũng hay vi phạm các nội quy, quy chế của Nhà trường, Ban giám hiệu cũng đã phân công thầy cô theo dõi, quản lý em T nhưng cũng chỉ là quản lý, giám sát trong thời gian em ở Trường, còn khi hết giờ học hay ở nhà thì Nhà trường cũng chưa quản lý sát sao được. Với hành vi cố ý gây thương tích rất nghiêm trọng cho người khác đã phạm vào tội hình sự, nhưng em T cũng hành động bột phát, hành vi do em gây ra cũng không phải là hậu quả mà em mong muốn, Nhà trường cũng mong muốn Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho em và có biện pháp tư pháp khác để em T tiếp tục được học tập, lao động, giáo dục để trở thành người học sinh ngoan, người công dân có ích cho xã hội.
Tại phiên tòa, đại diện gia đình những đối tượng tham gia đánh nhau bà Đinh Thị K (mẹ anh Đinh Văn C), bà Lò Thị O (mẹ Lường Văn N), gia đình anh Đinh Văn W (cậu ruột anh Đinh Đức B), bà Lò Thị P (mẹ anh Đinh Trọng E), anh Hoàng Văn X (cậu ruột anh Đinh Công F) trình bày: Sau khi sự việc xảy ra, gia đình các cháu đã phối hợp với Nhà trường nghiêm túc kiểm điểm, giáo dục các cháu, các gia đình đã tự nguyện hỗ trợ bồi thường cho cháu Đinh Công A, cụ thể: Gia đình Đinh Văn C hỗ trợ: 5.000.000,đ (Năm triệu đồng); Gia đình Lường Văn N hỗ trợ: 5.000.000,đ (Năm triệu đồng); Gia đình Đinh Đức B hỗ trợ 2.000.000,đ (Hai triệu đồng); Gia đình Đinh Trọng E hỗ trợ 1.000.000,đ (Một triệu đồng); Gia đình Đinh Công F hỗ trợ 1.000.000,đ (Một triệu đồng);
Tại phiên tòa, đại diện gia đình các em C, N, B, E, F không có ý kiến gì về khoản tiền đã hỗ trợ cho người bị hại Đinh Công A và đều có ý kiến đề nghị không áp dụng hình phạt đối với bị cáo T, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để quyết định đưa em T vào trường giáo dưỡng để tiếp tục được đi học, rèn luyện, giáo dục trở thành người công dân có ích cho xã hội.
Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số: 72/CT - VKS, ngày 26/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La truy tố: Bị cáo Đinh Trọng T phạm tội Cố ý gây thương tích theo điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Đinh Trọng T phạm tội Cố ý gây thương tích.
Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điều 54; điều 90; điều 91; điều 96 Bộ luật Hình sự. Khoản 6 điều 423; điều 430 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
- Không áp dụng hình phạt đối với bị cáo Đinh Trọng T.
- Quyết định áp dụng biện pháp tư pháp đưa bị cáo Đinh Trọng T vào trường giáo dưỡng theo quy định.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy: 01 con dao bằng kim loại, loại dao nhọn một lưỡi sắc, dài 34cm x điểm rộng nhất của bản dao 4,1cm, cũ qua sử dụng; 01 mảnh viên gạch bê tông (xi măng) màu xám, không rõ hình, kích thước 10,5cm x 5,5cm x 7cm, có khối lượng 0.28kg; 01 hòn đá tự nhiên màu vàng nâu không rõ hình, kích thước 11cm x 9cm x 3,5cm, có khối lượng 0.4kg; 01 mảnh vỡ gạch bê tông màu xám, kích thước 17,5cm x 7cm x 13cm, một đầu bằng, một đầu bị vỡ nham nhở; 01 mảnh bê tông không rõ hình màu xám, kích thước 10cm x 14cm x 5cm, góc cạnh nham nhở; 01 mảnh bê tông không rõ hình màu xám, kích thước 7cm x 8cm x 9cm, góc cạnh nham nhở.
Về trách nhiệm dân sự: áp dụng điều 48 Bộ luật hình sự; điều 584, 585, 586 và 590 Bộ luật dân sự năm 2015: Chấp nhận sự tự nguyện đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại của gia đình bị cáo Đinh Trọng T, gia đình bà Đinh Thị K (mẹ anh Đinh Văn C), gia đình bà Lò Thị O (mẹ Lường Văn N), gia đình anh Đinh Văn W (cậu ruột anh Đinh Đức B), gia đình ông Đinh Văn U (bố anh Đinh Trọng E), gia đình bà Hoàng Thị Y (mẹ anh Đinh Công F) cho gia đình người bị hại Đinh Công A số tiền 24.000.000,đ (Hai mươi tư triệu đồng).
- Chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận bồi thường của gia đình bị hại và gia đình bị cáo. Anh Đinh Văn Q có trách nhiệm bổi thường tiếp cho gia đình bị hại Đinh Công A số tiền 30.000.000,đ (Ba mươi triệu đồng).
Buộc người đại diện hợp pháp của bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo Đinh Trọng T thành khẩn nhận tội, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và người bị hại, người đại diện hợp pháp cho bị hại, đại diện Nhà trường nơi bị cáo đang học tập có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và xem xét cho bị cáo được tiếp tục học tập, ràn luyện, giáo dục trong một môi trường có sự quản lý chặt chẽ hơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo là người chưa thành niên phạm tội, từ quá trình điều tra có sự tham gia của người đại diện hợp pháp, của người bào chữa cho bị cáo. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Bị cáo, người bị hại là người chưa thành niên, để đảm bảo quyền lợi cho bị cáo, người bị hại, Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án có Hội thẩm nhân dân là nguyên giáo viên và có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi. Có sự tham gia của người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị hại, đại diện Nhà trường nơi bị cáo học tập đúng theo quy định tại điều 76, điều 415, điều 420, 423 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Người làm chứng Lê Trần G và Nguyễn Văn H đã được Tòa án triệu tập đến tham gia phiên tòa nhưng xử vắng mặt do còn đang đi học và đi làm, có đầy đủ lời khai có trong hồ sơ, việc vắng mặt của người làm chứng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử.
[2] Ngày 24/6/2020, bị cáo Đinh Trọng T sinh ngày 21/01/2006 (đến ngày phạm tội được 15 tuổi 5 tháng 03 ngày) có hành vi dùng gạch ném vào mặt của Đinh Công A, gây thương tích 44%. Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội cũng như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ: Lời khai nhận tội của bị cáo; Đơn trình báo, lời khai của người bị hại; biên bản khám nghiệm hiện trường; Kết luận giám định của Trung tâm pháp y tỉnh Sơn La; Các biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với kết quả điều tra.
[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo Đinh Trọng T dùng hung khí nguy hiểm nhằm mục đích gây thương tích cho người khác với tỷ lệ thương tích 44%. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng trực tiếp đến đến sức khỏe, tinh thần của người khác, ảnh hưởng đến an ninh trật tự trên địa bàn. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý, dùng hung khí nguy hiểm tấn công vào vùng trọng yếu của người bị hại. Do đó, cần lên mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật nhằm đảm bảo biện pháp cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần cân nhắc về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.
Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình đã tự nguyện tích cực bồi thường cho người bị hại, đại diện gia đình bị hại đã xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị đưa bị cáo T vào trường giáo dưỡng để học tập, giáo dục, rèn luyện trở thành người công dân tốt là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét thấy: Bị cáo phạm tội với khung hình phạt rất nghiêm trọng, tuy nhiên bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội khi chưa đến tuổi trưởng thành, do thiếu hiểu biết pháp luật, thiếu sự giáo dục của gia đình, hành vi của bị cáo là bột phát, có một phần lỗi của nhóm người bên phía bị hại. Bị cáo hiện vẫn đang đi học tại Trường trung học cơ sở G tuy nhiên vẫn thường xuyên vi phạm nội quy, quy chế của Nhà trường, mặc dù đã được thầy cô nhắc nhở, giáo dục liên tục. Hiện nay bị cáo đang ở với ông bà nội đã già yếu, bố đi làm ăn xa nhà, mẹ đi lấy chồng ở địa bàn khác (bố mẹ đã ly hôn), bị cáo thường đi lại với những đối tượng xấu nên việc giáo dục, quản lý bị cáo có nhiều hạn chế.
Do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của bị cáo, thấy không cần thiết phải quyết định hình phạt đối với bị cáo, cần đưa bị cáo vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ, áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với bị cáo để nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, để bị cáo được giáo dục, học tập, học nghề, lao động dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà trường để bị cáo trở thành người học sinh ngoan, người công dân có ích cho xã hội.
[4] Vật chứng vụ án: Đối với 01 con dao bằng kim loại, loại dao nhọn một lưỡi sắc, dài 34cm x điểm rộng nhất của bản dao 4,1cm, cũ qua sử dụng; 01 mảnh viên gạch bê tông (xi măng) màu xám, không rõ hình, kích thước 10,5cm x 5,5cm x 7cm, có khối lượng 0.28kg; 01 hòn đá tự nhiên màu vàng nâu không rõ hình, kích thước 11cm x 9cm x 3,5cm, có khối lượng 0.4kg; 01 mảnh vỡ gạch bê tông màu xám, kích thước 17,5cm x 7cm x 13cm, một đầu bằng, một đầu bị vỡ nham nhở; 01 mảnh bê tông không rõ hình màu xám, kích thước 10cm x 14cm x 5cm, góc cạnh nham nhở; 01 mảnh bê tông không rõ hình màu xám, kích thước 7cm x 8cm x 9cm, góc cạnh nham nhở, xét thấy đây là công cụ, phương tiện phạm tội và không còn giá trị sử dụng do đó cần áp dụng điểm a khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu tiêu hủy.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điều 48 Bộ luật hình sự; điều 584, 585, 586 và 590 Bộ luật dân sự năm 2015;
Sau khi phạm tội, gia đình bị cáo T và gia đình các em Đinh Văn C, Lường Văn N, Đinh Đức B, Đinh Trọng E, Đinh Công F đã tự nguyện, tích cực và hỗ trợ bồi thường cho người bị hại Đinh Công A số tiền 24.000.000,đ (Hai mươi tư triệu đồng).
Tại phiên tòa, đại diện gia đình bị cáo và bị hại đã tự nguyện thống nhất, thỏa thuận gia đình bị cáo tiếp tục bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 30.000.000,đ (Ba mươi triệu đồng), xét thấy việc thỏa thuận bồi thường là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận ông Đinh Văn Q là người đại diện hợp pháp của bị cáo có trách nhiệm tiếp tục bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 30.000.000,đ (Ba mươi triệu đồng).
[6] Đối với các em Đinh Công A, Đinh Văn C, Lường Văn N, Đinh Đức B, Đinh Trọng E, Đinh Công F đã có hành vi tham gia đánh nhau nhưng không gây hậu quả nghiêm trọng, hành vi của các em A, C, N, B, E, F không phạm tội hình sự, các em đã bị Nhà trường nơi học tập xử lý kỷ luật do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
[7]Về án phí: Do bị cáo là trẻ em phạm tội (đến ngày phạm tội được 15 tuổi 05 tháng 03 ngày), do vậy cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định tại điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14. Người đại diện hợp pháp của người bị hại là ông Đinh Văn Q phải chịu 1.500.000,đ (Một triệu năm trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 3 điều 21; khoản 2 điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14:
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 3 điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 54; điều 90; điều 91; điều 96 Bộ luật Hình sự năm 2015. Khoản 6 điều 423; điều 430 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
- Tuyên bố bị cáo Đinh Trọng T phạm tội Cố ý gây thương tích.
- Không áp dụng hình phạt đối với bị cáo Đinh Trọng T.
- Quyết định áp dụng biện pháp tư pháp đưa bị cáo Đinh Trọng T vào trường giáo dưỡng tại Trường giáo dưỡng số 2 – Cục cảnh sát quản lý trại giam, Cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng – Bộ Công an; địa chỉ: Đội 7, xã Mai Sơn, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Thời gian chấp hành tại trường giáo dưỡng là: 18 (Mười tám) tháng, kể từ ngày bị cáo Đinh Trọng T được đưa vào trường giáo dưỡng.
Trường giáo dưỡng số 2 – Cục cảnh sát quản lý trại giam, Cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng – Bộ Công an có trách nhiệm quản lý, giáo dục chặt chẽ để Đinh Trọng T học tập, học nghề, lao động, sinh hoạt theo quy định của Trường giáo dưỡng và của pháp luật.
Bị cáo Đinh Trọng T có nghĩa vụ học tập, học nghề, lao động, sinh hoạt theo quy định của Trường giáo dưỡng và của pháp luật.
Về vật chứng vụ án: áp dụng điểm a khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) con dao bằng kim loại, loại dao nhọn một lưỡi sắc, dài 34cm x điểm rộng nhất của bản dao 4,1cm, cũ qua sử dụng; 01 (Một) mảnh viên gạch bê tông (xi măng) màu xám, không rõ hình, kích thước 10,5cm x 5,5cm x 7cm, có khối lượng 0.28kg; 01 (Một) hòn đá tự nhiên màu vàng nâu không rõ hình, kích thước 11cm x 9cm x 3,5cm, có khối lượng 0.4kg; 01 (Một) mảnh vỡ gạch bê tông màu xám, kích thước 17,5cm x 7cm x 13cm, một đầu bằng, một đầu bị vỡ nham nhở; 01 (Một) mảnh bê tông không rõ hình màu xám, kích thước 10cm x 14cm x 5cm, góc cạnh nham nhở; 01 (Một) mảnh bê tông không rõ hình màu xám, kích thước 7cm x 8cm x 9cm, góc cạnh nham nhở.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 06/BB – GNVC, ngày 27/10/2020 giữa cơ quan Công an huyện Phù Yên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La);
Về trách nhiệm dân sự: áp dụng điều 48 Bộ luật hình sự; điều 584, 585, 586 và 590 Bộ luật dân sự năm 2015;
Chấp nhận sự tự nguyện đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại của gia đình bị cáo Đinh Trọng T, gia đình bà Đinh Thị K (mẹ Đinh Văn C), gia đình bà Lò Thị O (mẹ Lường Văn N), gia đình anh Đinh Văn W (cậu ruột Đinh Đức B), gia đình ông Đinh Văn U (bố Đinh Trọng E), gia đình bà Hoàng Thị Y (mẹ Đinh Công F) cho gia đình người bị hại Đinh Công A số tiền 24.000.000,đ.
Chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận bồi thường của gia đình bị hại và gia đình bị cáo. Anh Đinh Văn Q có trách nhiệm bổi thường tiếp cho gia đình bị hại Đinh Công A số tiền 30.000.000,đ.
Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 điều 12; khoản 3 điều 21; khoản 2 điều 26 Nghị F 326/2016/UBTVQH14:
Bị cáo Đinh Trọng T được miễn án phí hình sự sơ thẩm. Anh Đinh Văn Q phải chịu 1.500.000,đ (Một triệu năm trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
Về quyền kháng cáo: áp dụng điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo; Người đại diện hợp pháp của bị cáo; Người bào chữa cho bị cáo; Người bị hại; người đại diện hợp pháp của người bị hại được được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 12 tháng 11 năm 2020.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 01/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 01/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phù Yên - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về