TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 01/2019/HNGĐ-PT NGÀY 19/02/2019 VỀ TRANH CHÁP NUÔI CON
Ngày 19 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 04/2018/TLPT- HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2018 về việc “tranh chấp nuôi con” .
Do bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 08/2018/HNGĐ-ST ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Hải Lăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 01/2019/QĐ-PT ngày 03 tháng 01 năm 2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Võ Hữu L; Sinh năm 1981. Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H,tỉnh Q.
2. Bị đơn : Chị Bùi Thị Kim H; Sinh năm 1987. Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Q Trị.
3. Người kháng cáo: Chị Bùi Thị Kim H là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm số 08/2018/HNGĐ-ST ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Hải Lăng nội dung vụ án như sau:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 30/7/2018, bản tự khai, biên bản hòa giải ngày 02/10/2018 và lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn anh Võ Hữu L trình bày: Anh Võ Hữu L và chị Bùi Thị Kim H chung sống với nhau từ năm 2009, đến nay đã hơn 9 năm, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi vã to tiếng nhiều năm, không thể khắc phục, hòa hợp để chung sống. Về con chung: Vợ chồng có 2 con chung cháu Võ Bùi Gia T, sinh ngày 23/5/2010 và Võ Bùi Anh K, sinh ngày 05/11/2013.
Anh L xin nuôi hai cháu và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, trường hợp chị H có nguyện vọng nuôi con thì anh L xin được nuôi cháu K, giao cháu T cho chị H nuôi dưỡng. Về tài sản chung không yêu cầu tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn chị Bùi Thị Kim H trình bày như sau: Chị và anh L chung sống với nhau từ năm 2009 nhưng đến năm 2013 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã Hải Trường Trong thời gian chung sống anh L không quan tâm đến vợ con, gần 1 năm trở lại đây vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn cãi vã, vợ chồng không còn tình cảm nhưng chị không đồng ý ly hôn. Về con chung: Chị H có nguyện vọng xin nuôi cả 2 cháu Võ Bùi Gia T và Võ Bùi Anh K, yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi một cháu mỗi tháng 2000.000 đồng. Về tài sản: Không yêu cầu tòa án giải quyết.
Tại bản án số 08/2018/HNGĐ-ST ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Hải Lăng đã áp dụng Khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; áp dụng Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, xử: Về quan hệ hôn nhân: Anh Võ Hữu L được ly hôn chị Bùi Thị Kim H.
Về con chung: Giao cháu Võ Bùi Gia T, sinh ngày 23/5/2010 cho chị Bùi Thị Kim H nuôi dưỡng. Giao cháu Võ Bùi Anh K, sinh ngày 05/11/2013 cho anh Võ Hữu L nuôi dưỡng. Không bên nào cấp dưỡng nuôi con.
Về án phí: Anh Võ Hữu L phải chịu 300.000 đồng án phí DSST nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số AA/2014/0006373 ngày 31/7/2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Hải Lăng , tỉnh Quảng Trị.
Ngoài ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 16 tháng 11 năm 2018 chị Bùi Thị Kim H có đơn kháng cáo với nội dung: Xin được nuôi cháu Bùi Anh K, sinh ngày 05/11/2013 vì bố cháu anh Võ Hữu L điều kiện công việc không trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cháu nhỏ dưới 6 tuổi và anh L từ trước đến nay không quan tâm đến việc chăm sóc con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Tòa án cấp sơ thẩm xác định tranh chấp: đây là quan hệ tranh chấp “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” và xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
[2] Xét kháng cáo của chị chị Bùi Thị Kim Hồng kháng cáo với nội dung: Xin được nuôi cháu Võ Bùi Anh K, sinh ngày 05/11/2013, Hội đồng xét xử thấy:
Vợ chồng anh Lực và chị H chung sống với nhau từ năm 2009 và đã đăng ký kết hôn tại UBND xã Hải Trường vào ngày 19/12/2013. Vợ chồng có 2 con chung là cháu Võ Bùi Gia T, sinh ngày 23/5/2010 và cháu Võ Bùi Anh K, sinh ngày 05/11/2013. Quá trình chung sống vợ chồng luôn xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận cho anh L được ly hôn với chị H là có cơ sở. Chị Bùi Thị Kim H không kháng cáo phần này.
Về con chung: Xét về điều kiện thu nhập nuôi con thì cả anh L và chị H đều có công việc làm ổn định, nhưng anh Lực hiện đang sinh sống, làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh, Chị H hiện đang sinh sống và làm công nhân tại công ty dệt may VTJTOMS tại huyện H có mức thu nhập từ 5-6 triệu đồng/ tháng. Anh L và chị H đều có nguyện vọng nuôi con, tuy nhiên Hội đồng xét xử thấy rằng:
Đối với cháu Võ Bùi Gia T năm nay đã 9 tuổi và nguyện vọng của cháu là muốn sống với mẹ, nên việc cấp sơ thẩm quyết định giao cháu T cho chị H nuôi dưỡng là cơ cơ sở, phù hợp với nguyện vọng của cháu.
Đối với cháu Võ Bùi Anh K, sinh ngày 05/11/2013, Cháu hiện mới được 5 tuổi, đang ở độ tuổi cần bàn tay chăm sóc của người mẹ, Anh L hiện nay đang sống, làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh, không có điều kiện chăm sóc cháu. Theo xác nhận của Hội liên hiệp phụ nữ xã Hải Trường, huyện Hải Lăng có văn bản đề nghị giao cháu K cho chị Hồng chăm sóc nuôi dưỡng. Trường mầm non Tiến Đạt (lúc đang sống tại Thành phố Hồ Chí Minh) thì từ trước đến nay anh L không quan tâm chăm sóc con. Cả hai cháu hiện nay đang sống và học tập ổn định với mẹ tại tại Xã Hải Trường, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Cháu T hiện đang học tại trường TH&THCS thị trấn Hải Lăng, Cháu K hiện đang học tại trường mầm non thị trấn Hải Lăng. Cháu K còn nhỏ và thường xuyên đau ốm nên xét thấy cần giao cháu Khoa cho chị Hồng chăm sóc và anh Lực có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là hợp lý.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng cần sửa án sơ thẩm, chấp nhận kháng cáo của bị đơn chị Bùi Thị Kim H, giao hai cháu Võ Bùi Gia T và cháu Võ Bùi anh K cho chị Hồng chăm sóc nuôi dưỡng, anh L có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/ 1 tháng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị đề nghị : Chấp nhận kháng cáo của chị Bùi Thị Kim Hồng, sửa án sơ thẩm, giao cháu Võ Bùi Anh K sinh ngày 05/11/2013 và cháu Võ Bùi Gia T, sinh ngày 23/5/2010 cho chị Bùi Thị Kim H nuôi dưỡng. Buộc anh Võ Hữu L cấp dưỡng nuôi con 2000.000 đồng/ tháng từ ngày xét xử phúc thẩm cho đénkhi cháu K trưởng thành.
[3] Về án phí: Chị Bùi Thị Kim H không phải chịu án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm. Hoàn trả cho chị Bùi Thị Kim H số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số AA/2014/0006415 ngày 11/12/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
Anh Võ Hữu L phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số AA/2014/0006373 ngày 31/7/2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Hải Lăng , tỉnh Quảng Trị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308; Điều 309, khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự. Khoản 1 Điều 51, Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Sửa bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm.
Chấp nhận kháng cáo của chị Bùi Thị Kim H, xử:
Giao hai cháu Võ Bùi Anh K, sinh ngày 05/11/2013 và Võ Bùi Gia Tuệ; Sinh ngày 23/5/2010 cho chị H nuôi dưỡng chăm sóc. Anh Võ Hữu Lực có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai cháu Võ Bùi Anh K, sinh ngày 05/11/2013 và cháu Võ Bùi Gia T, sinh ngày 23/5/2010 một tháng 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). Thời điểm cấp dưỡng từ tháng 2/2019 cho đến khi cháu T, cháu K đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.
Anh Võ Hữu L có quyền thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về án phí: Chị Bùi Thị Kim Hồng không phải chịu án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm. Hoàn trả cho chị Bùi Thị Kim H số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số AA/2014/0006415 ngày 11/12/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
Anh Võ Hữu L phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số AA/2014/0006373 ngày 31/7/2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Hải Lăng , tỉnh Quảng Trị.
Các phần còn lại của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực từ ngày tuyên án.
Bản án 01/2019/HNGĐ-PT ngày 19/02/2019 về tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 01/2019/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 19/02/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về