TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 01/2019/HC-ST NGÀY 17/01/2019 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Ngày 17/01/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 59/2018/TLST-HC ngày 04/9/2018 về việc “Khiếu kiện Quyết định trong lĩnh vực quản lý đất đai ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2018/QĐXXST - HC ngày 28/12/2018 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Hoàng Văn C.
Địa chỉ: Tổ 27, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Phan Hồng P
Địa chỉ: số 070 đường Đ, phường D, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Có mặt
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố L.
Địa chỉ: số 591, đường H, phường K, thành phố L, tỉnh Lào Cai.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Quang M - Chức vụ: Chủ tịch
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Tô Ngọc L - Chức vụ: Phó chủ tịch UBND thành phố L. Vắng mặt
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Bà Phạm Thị H
Địa chỉ: Tổ 27, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai
Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Phan Hồng P. Địa chỉ: số 070 đường Đ, phường D, thành phố L, tỉnh Lào Ca
- Công ty cổ phần N.
Địa chỉ: số 157, đường N, phường C, thành phố L, tỉnh Lào Cai.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Anh D - Cán bộ kỹ thuật Công ty cổ phần N.
Địa chỉ: số nhà 025, đường Quách Văn Rạng, tổ 20, phường B, thành phố L. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Người khởi kiện trình bầy: Đầu năm 2018, ông Hoàng Văn C thường trú tại tổ 27 phường B, thành phố L có thỏa thuận chuyển nhượng cho Công ty TNHH sản xuất năm H 02 thửa đất vườn của gia đình ông C tại tổ 26 phường B, thành phố L. 02 thửa đất mà hộ ông C chuyển nhượng cho Công ty là phần còn lại của thửa số 10 và thửa số 11 tờ bản đồ số P2-6, năm 2013 UBND thành phố L đã thu hồi để mở rộng đường B1. Diện tích còn lại của 2 thửa tổng cộng là 367m2. Tháng 6/2018 bà Phan Hồng P là người đại diện của Công ty TNHH sản xuất năm H đã nộp hồ sơ đăng ký biến động đất đai về việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với phần diện tích đất mà gia đình ông Hoàng Văn C đã chuyển nhượng cho Công ty tại bộ phận “một cửa” của Sở Tài nguyên và Môi trường, sau đó bà P nhận được văn bản của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Lào Cai về việc trả lại hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của Công ty. Lý do 02 thửa đất của gia đình ông C chuyển nhượng cho Công ty đã có Quyết định thu hồi đất của UBND thành phố L để thực hiện dự án công trình Tiểu khu đô thị số 3, khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường, phường B, thành phố L từ tháng 4/2016, bà P và gia đình ông C hoàn toàn bất ngờ về việc này, vì theo quy định tại Khoản 1 Điều 67 của Luật Đất đai 2013 quy định: “Trước khi có quyết định thu hồi đất chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo thu hồi đất cho người có đất thu hồi biết”. Gia đình ông Hoàng Văn C không nhận được bất cứ giấy tờ gì của UBND thành phố L nên việc UBND thành phố L cho rằng phần diện tích đất còn lại của 02 thửa đất của hộ gia đình ông Hoàng Văn C đã được UBND thành phố L thu hồi theo quyết định số 708/QĐ-UBND ngày 26/4/2016 là không có căn cứ. UBND thành phố L không những không ban hành thông báo thu hồi đất cho gia đình ông C mà cả quyết định thu hồi đất cũng không được giao tận tay người có đất bị thu hồi, không có quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư theo quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 69 của Luật Đất đai.
Ông Hoàng Văn C khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định thu hồi đất số 708/QĐ-UBND ngày 26/4/2016 của UBND thành phố L về việc thu hồi đất để thực hiện Công trình Tiểu khu đô thị số 3, Khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường, phường B, thành phố L.
Người bị kiện trình bày:
Ngày 25/01/2010, UBND tỉnh Lào Cai có công văn số 196/UBND-TNMT về việc ủy quyền cho UBND thành phố L thực hiện các thủ tục thông báo thu hồi đất đối với toàn bộ phạm vi giải phóng mặt bằng công trình Tiểu khu đô thị số 3, Khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường, phường B, thành phố L.
Căn cứ vào công văn 196/UBND-TNMT của UBND tỉnh Lào Cai, UBND thành phố L đã ban hành Thông báo số 94/TB-UBND ngày 16/4/2010 thông báo về chủ trương thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình Tiểu khu đô thị số 3, Khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường, phường B, thành phố L.
Năm 2013 UBND tỉnh Lào Cai phê duyệt thực hiện dự án Nâng cấp đường B1, phường B, thành phố L.
Ngày 01/10/2013 UBND thành phố L ban hành quyết định số 2688/QĐ - UBND ngày 01/10/2013 về việc thu hồi đất các hộ ông (bà) Hoàng Văn c - Phạm Thị H, hộ di chuyển GPMB thực hiện công trình Nâng cấp đường B1, phường B, thành phố L. Trong đó thu hồi 742m2 đất thửa số 10 (diện tích còn lại 54m2), thửa số 11 diện tích 1533m2 (diện tích còn lại 313m2) GCNQSD đất số AG 433319 cấp ngày 20/8/2007, số vào sổ cấp GCN số 65.
Ngày 05/4/2016 UBND phường B có Tờ trình số 16/TTr - UBND gửi UBND thành phố L về việc đề nghị thu hồi đất của 02 hộ gia đình ông Hoàng Văn Liềng và hộ ông Hoàng Văn C để di chuyển giải phóng mặt bằng công trình: Tiểu khu đô thị số 3, phường B với tổng diện tích đề nghị thu hồi là 625m2, trong đó hộ ông Hoàng Văn C - vợ Phạm Thị H bị thu hồi 367m2 đất (đất màu 54m2, đất vườn tạp 313m2) thuộc thửa số 10, 11 tờ bản đồ P2-6 (đã có GCNQSD đất số AG 433319 cấp ngày 20/8/2007).
Sau khi nhận được tờ trình đề nghị thu hồi đất của UBND phường B đối với hộ ông Hoàng Văn C, Phòng TNMT kiểm tra và tham mưu tại Tờ trình số 211/Ttr - TNMT ngày 22/4/2016 về việc đề nghị UBND thành phố L thu hồi đất công trình Tiểu khu đô thị số 3, Khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường, phường B, thành phố L.
Ngày 26/4/2016, UBND thành phố L ban hành Quyết định số 708/QĐ-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện công trình Tiểu khu đô thị số 3, Khu đô thị mới Lào Cai-Cam Đường, phường B, thành phố L đối với hộ ông Hoàng Văn C, bà Phạm Thị H, thu hồi 367m2 đất thuộc thửa đất số 10, 11 thuộc tờ bản đồ P2-6 đã được cấp GCNQSD đất số AG 433319 cấp ngày 20/8/2007.
Ngày 05/5/2016 chủ hộ là ông Hoàng Văn C đã ký xác nhận vào Giấy nhận tiền bồi thường tài sản, hoa màu và chính sách hỗ trợ công trình Tiểu khu đô thị số 3, phường B với số tiền 52.241.000, VNĐ. Hộ gia đình ông C đã nhất trí cam kết di chuyển tài sản, cây cối, hoa màu bàn giao mặt bằng cho công ty Nam Tiến thi công chậm nhất đến ngày 20/5/2016, nếu sai sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật.
Trong quá trình thực hiện công tác giải phóng mặt bằng công trình: Tiểu khu đô thị số 3, Khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường, ban hành quyết định thu hồi đất đối với hộ ông Hoàng Văn C, UBND thành phố L không nhận được bất kỳ đơn đề nghị, khiếu nại nào của hộ gia đình ông C.
Từ đó khẳng định UBND thành phố L thu hồi đất của hộ ông Hoàng Văn Công là đúng quy định. Việc ông Hoàng Văn C yêu cầu hủy Quyết định số 708/QĐ - UBND ngày 26/04/2016 của UBND thành phố L là không có căn cứ.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày:
Công ty cổ phần N là chủ đầu tư Dự án Tiểu khu đô thị số 3, phường B, thành phố L. Quá trình thực hiện dự án có liên quan đến việc thu hồi đất của gia đình ông Hoàng Văn C và bà Phạm Thị H.
Ngày 15/3/2016 tổ công tác giúp việc cho Hội đồng thực hiện thống kê kiểm tra số lượng đất, tài sản hoa màu phải di chuyển của hộ gia đình ông Hoàng Văn C, bà Phạm Thị H tại Dự án Tiểu khu đô thị số 3, phường B. Tổ công tác áp giá dự thảo phương án chi tiết chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với hộ gia đình ông Hoàng Văn C.
Ngày 26/4/2016 UBND thành phố L ban hành Quyết định số 708/QĐ-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện công trình Tiểu khu đô thị số 3, Khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường, phường B, thành phố L đối với hộ gia đình ông Hoàng Văn C.
Ngày 05/5/2016 Chủ hộ là ông Hoàng Văn C đã đồng ý nhận tiền tạm ứng tương đương với dự thảo áp giá và ký xác nhận vào giấy nhận tiền bồi thường tài sản, hoa màu và chính sách hỗ trợ công trình Tiểu khu đô thị số 3, phường B với số tiền 52.241.000 đồng (Năm mươi hai triệu, hai trăm bốn mốt nghìn đồng). Hộ gia đình ông Hoàng Văn C đã nhất trí cam kết di chuyển tài sản, cây cối, hoa màu bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công chậm nhất đến ngày 20/5/2016. Nếu không thực hiện hộ gia đình sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật. Vì vậy việc hộ Hoàng Văn C yêu cầu hủy Quyết định số 708/QĐ-UBND ngày 26/04/2016 về việc thu hồi đất của UBND thành phố L là không có căn cứ.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai đã tiến hành mở phiên đối thoại để các bên đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng không có kết quả.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đề nghị Hội đồng xét xử bác đơn khởi kiện của người khởi kiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tình Lào Cai tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: Đối với Hội đồng xét xử; Thẩm phán, Chủ tọa phiên tòa; Hội thẩm nhân dân; thư ký Tòa án đã tiến hành các bước đúng quy định của Luật tố tụng hành chính, về việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng hành chính đảm bảo, đúng quy định.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Văn C. Hủy Quyết định thu hồi đất số 708/QĐ-UBND ngày 26/4/2016 của UBND thành phố L.
Tuyên án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quyền khởi kiện của ông Hoàng Văn C: Quyết định số 708/QĐ-UBND ngày 26/04/2016 của Ủy ban nhân dân thành phố L ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Hoàng Văn C. Vì vậy ông C có quyền khởi kiện đối quyết định trên theo quy định tại Điều 115 Luật tố tụng hành chính.
[2] Về đối tượng khởi kiện: Quyết định số 708/QĐ-UBND ngày 26/04/2016 của Ủy ban nhân dân thành phố L là quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính theo quy định tại Điều 30 Luật tố tụng hành chính.
[3] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Quyết định hành chính bị kiện do UBND thành phố L, tỉnh Lào Cai ban hành, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai thụ lý giải quyết là đảm bảo đúng quy định theo Điều 32 Luật tố tụng hành chính.
[4] Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 26/4/2016 Ủy ban nhân thành phố L ban hành quyết định số 708/QĐ-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện Công trình Tiểu khu đô thị số 3, Khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường, phường B, thành phố L, nhưng không bàn giao cho hộ gia đình ông C. Tháng 6/2018 sau khi nộp hồ sơ đăng ký biến động và bị trả lại hồ sơ, ông C mới được biết quyết định thu hồi trên. Ngày 21/8/2018 ông C nộp đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai. Theo quy định tại khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính đơn khởi kiện của ông C nộp tại Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai trong hạn luật định là hợp pháp.
[5] Xét tính hợp pháp của Quyết định số 708/QĐ-UBND ngày 26/04/2016 của UBND thành phố L
Về thẩm quyền ban hành quyết định: Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 66 Luật đất đai năm 2013 thì thẩm quyền thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện. Vì vậy UBND thành phố L, tỉnh Lào Cai ban hành Quyết định số 708/QĐ-UBND ngày 26/04/2016 về việc thu hồi đất của hộ ông Hoàng Văn C để thực hiện công trình Tiểu khu đô thị số 3, Khu đô thị mới Lào Cai-Cam Đường là đúng thẩm quyền.
Về trình tự, thủ tục ban hành quyết định:
Ngày 05/4/2016 UBND phường B lập Tờ trình số 16/TTr-UBND đề nghị UBND thành phố L thu hồi đất của 02 hộ gia đình là ông Hoàng Văn Liềng và ông Hoàng Văn C để phục vụ công tác đền bù giải phóng mặt bằng đáp ứng tiến độ thi công C trình: Tiểu khu đô thị số 3, phường B với tổng diện tích đề nghị thu hồi là 625m2, trong đó hộ ông Hoàng Văn C, vợ là Phạm Thị H bị thu hồi 367m2 đất (đất màu 54m2, đất vườn tạp 313m2) thuộc thửa đất số 10, 11 tờ bản đồ P2-6 (đã được cấp GCNQSD)
Sau khi nhận được tờ trình của UBND phường B, ngày 22/4/2016 Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố L lập Tờ trình số 211/Ttr-TNMT về việc đề nghị UBND thành phố L thu hồi đất công trình Tiểu khu đô thị số 3, Khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường, phường B, thành phố L.
Ngày 26/4/2016 UBND thành phố L ban hành Quyết định số 708/QĐ-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện công trình Tiểu khu đô thị số 3, Khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường, phường B, thành phố L đối với hộ ông Hoàng Văn C, bà Phạm Thị H.
Trước khi tiến hành thu hồi đất, UBND thành phố L không thông báo thu hồi đất; không triển khai thực hiện kế hoạch thu hồi đất; không lập, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; không phê duyệt, phổ biến và niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; không gửi quyết định thu hồi cho người có đất bị thu hồi. Như vậy về trình tự, thủ tục thu hồi đất của UBND thành phố L đã vi phạm Điều 69 Luật Đất đai 2013.
Về nội dung:
Dự án công trình Tiểu khu đô thị số 3, Khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường, phường B, thành phố L được UBND tỉnh Lào Cai phê duyệt điều chỉnh và mở rộng quy hoạch chi tiết tại Quyết định 4368/QĐ - UBND ngày 24/12/2009; Phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định 1384/QĐ - UBND ngày 26/5/2010; Phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 tại Quyết định số 3088/QĐ - UBND ngày 30/10/2010. Quá trình thực hiện dự án, năm 2013 UBND thành phố L đã tiến hành thu hồi đất của hộ gia đình ông Hoàng Văn C, bà Phạm Thị H tại Quyết định số 2688/QĐ - UBND ngày 01/10/2013 và đã bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho gia đình ông C theo quy định. Đến ngày 26/4/2016 UBND thành phố L căn cứ Tờ trình số 211/Ttr - TNMT ngày 22/4/2016 của Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố L để ban hành Quyết định số 708/QĐ - UBND về việc thu hồi đất để thực hiện Công trình Tiểu khu đô thị số 3, Khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường, phường B, thành phố L đối với ông Hoàng Văn C. Quyết định 708/QĐ - UBND căn cứ Quyết định số 873/QĐ - UBND ngày 31/3/2016 của UBND tỉnh Lào Cai về việc phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2016 của UBND thành phố L; Quyết định số 3088/QĐ - UBND ngày 30/10/2010; Quyết định 1384/QĐ - UBND ngày 26/5/2010 để thu hồi đất của ông Hoàng Văn C, bà Phạm Thị H là chưa đủ căn cứ. Trong hồ sơ vụ án chưa có đủ các tài liệu, chứng cứ chứng minh diện tích đất thu hồi của gia đình ông C có nằm trong dự án công trình Tiểu khu đô thị số 3, Khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường, phường B hay không? Vì dự án trên đã được triển khai từ năm 2013 và đã thực hiện xong. Đến nay chưa có quyết định phê duyệt bổ sung hay điều chỉnh quy hoạch nên chưa có đủ căn cứ xác định việc thu hồi đất trên để thực hiện Công trình Tiểu khu đô thị số 3, Khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường, phường B, thành phố L.
Đối với số tiền 52.241.000d ông Hoàng Văn C đã nhận của Công ty cổ phần Nam Tiến, ông C cho rằng đây là tiền bồi thường đổ đất. Theo giấy nhận tiền ngày 5/5/2016 có nội dung: “Căn cứ thông báo công khai bản áp giá và Quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường và chính sánh hỗ trợ của UBND thành phố L...”. UBND thành phố L và Công ty cổ phần Nam Tiến cho rằng đây là tiền bồi thường theo phương án đã được phê duyệt nhưng UBND thành phố không ban hành quyết định phê duyệt phương án bồi thường nên không có căn cứ chứng minh đây là tiền bồi thường theo phương án đã được phê duyệt.
Từ phân tích trên cho thấy yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Văn C là có căn cứ pháp luật nên cần được chấp nhận.
[6] Về án phí: Ông Hoàng Văn C được Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện nên không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm. UBND thành phố L phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Văn C.
2. Hủy Quyết định số 708/QĐ-UBND ngày 26/04/2016 của UBND thành phố L về việc thu hồi đất của hộ ông Hoàng Văn C và bà Phạm Thị H để thực hiện công trình Tiểu khu đô thị số 3, Khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường.
3. Về án phí: UBND thành phố L phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm.
Hoàn trả cho ông Hoàng Văn C số tiền 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 000304 ngày 04/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự tỉnh Lào Cai
Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 01/2019/HC-ST ngày 17/01/2019 về khiếu kiện quyết định trong lĩnh vực quản lý đất đai
Số hiệu: | 01/2019/HC-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 17/01/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về