TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 01/2019/DS-ST NGÀY 02/01/2019 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM
Trong các ngày 30/11, 28/12/2018 và ngày 02/01/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 107/2018/TLST-DS ngày 10 tháng 4 năm 2018 về “tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 433/2018/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị U, sinh năm 1971 (có mặt).
Nơi cư trú: Ấp TC, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau.
- Bị đơn:
Bà Nhan Thị T, sinh năm 1962 (có mặt).
Chị Nguyễn Bích T, sinh năm 1985 (vắng mặt).
Anh Nguyễn Vũ L, sinh năm 1991 (vắng mặt).
Cùng cư trú: Ấp TC, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bà Trần Thị U trình bày:
Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 23/7/2017, bà đang ở nhà sau chuẩn bị ăn cơm thì nghe tiếng người gọi tên bà ở trước cửa nhà, bà U đi lên chưa đến cửa nhà thì bà T đi vào nói bà chung sống với chồng của bà T, bà U không thừa nhận thì bà T cùng các con của bà là chị T, anh L đánh bà, bà T còn dùng kéo cắt tóc bà, bà T và chị T giữ bà lại để anh L liên tục đánh bà, sau đó được mọi người can ngăn và Công an xã đến lập biên bản vụ việc.
Đến ngày 24/7/2017, bà U đi điều trị thương tích tại Bệnh viện đa khoa Hoàn Mỹ và sau đó bà U nhập viện điều trị tại Bệnh viện đa khoa Hoàn Mỹ từ ngày 26/7/2017 đến ngày 29/7/2017.
Tại đơn khởi kiện, bà U yêu cầu bà T, anh L và chị T có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại tổng số tiền 15.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, bà U xác định chỉ có bà T, chị T và anh L đánh bà và yêu cầu bà T, anh L và chị T bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm với tổng số tiền 14.680.000 đồng gồm các khoản sau đây: Tiền thuốc và nằm viện điều trị 3.500.000 đồng. Tiền ăn của người bệnh và người nuôi bệnh: 300.000 đồng (100.000 đồng/ngày/2 người x 03 ngày). Tiền xe ôm đi lại của người bệnh và người nuôi bệnh: 280.000 đồng (70.000 đồng/lần x 04 lần). Tiền mất thu nhập của người bệnh và người nuôi bệnh: 600.000 đồng (100.000 đồng/ngày/2người x 03 ngày). Tiền bị tổn thất tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm 10.000.000 đồng.
Bà Nhan Thị T trình bày:
Bà không đồng ý bồi thường theo yêu cầu khởi kiện của bà U vì thực tế bà U có chung sống với chồng bà là ông Nguyễn Văn V, bà có đến nhà bà U bốn lần yêu cầu bà U chấm dứt quan hệ với ông V nhưng bà U không đồng ý nên bà đánh bà U hai cái vào mặt và cắt tóc bà U, anh L và chị T không có đánh và cắt tóc bà U.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị U. Buộc bà Nhan Thị T, chị Nguyễn Bích T và anh Nguyễn Vũ L có trách nhiệm liên đới bồi thường cho bà Trần Thị U số tiền 8.850.000 đồng. Án phí dân sự sơ thẩm: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.
Từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho chị T và anh L nhưng anh chị vẫn vắng mặt không có lý do và không có ý kiến giải trình liên quan đến yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Bích T và anh Nguyễn Vũ L đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng anh chị vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh chị là phù hợp.
[2] Về trách nhiệm bồi thường: Bà U khởi kiện yêu cầu bà T, chị T và anh L cùng có trách nhiệm liên đới bồi thường vì cho rằng bà T, chị T và anh L đã gây thương tích cho bà. Bà T xác định bà là người đánh và cắt tóc bà U, chị T và anh L không có đánh bà U.
Xét thấy: Vào khoảng 13 giờ ngày 23/7/2017 bà T, chị T và anh L cùng đến nhà bà U ở ấp TC, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau với mục đích để đánh bà U. Theo biên bản xác minh vụ việc vi phạm hành chính đối với Nguyễn Bích T và Bản tường trình ngày 24/7/2017 đứng tên Nguyễn Bích T (tại các bút lục só 98, 99) chị T thừa nhận có đánh bà U. Đối với Nguyễn Vũ L mặc dù không thừa nhận có đánh bà U nhưng theo lời khai của bà Lê Thị L, ông Trần Ngọc U, ông Trần Minh K, ông Nguyễn Văn Đ và ông Trương Văn B là những người chứng kiến sự việc (tại các bút lục số 55, 59, 60, 61, 62, 76, 81) đều thể hiện bà T, chị T và anh L đều có đánh bà U, bà T còn cắt tóc bà U. Chính vì hành vi này, Công an huyện Đầm Dơi có công văn số 97/CQCSĐT ngày 23/8/2017 đề nghị Công an xã Tân Trung xử phạt hành chính đối với bà Nhan Thị T, chị Nguyễn Bích T và anh Nguyễn Vũ L. Theo đề nghị trên, ngày 01/9/2017 bà T, chị T và anh L đã bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Tân Trung xử phạt về hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác tại các Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội số 130/QĐ-XPVPHC, 131/QĐ-XPVPHC và 132/QĐ- XPVPHC. Từ khi nhận được công văn và các Quyết định xử phạt nêu trên, các bị đơn không có ý kiến hay khiếu nại liên quan đến các văn bản nêu trên. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định, vào khoảng 13 giờ ngày 23/7/2017 bà T, chị T và anh L cùng đến nhà bà U để đánh và thực tế các bị đơn đều có đánh bà U.
Việc bà U bị bà T, chị T và anh L đánh dẫn đến bà U đi điều trị thương tích là thực tế có xảy ra, cụ thể: Sau khi bị gây thương tích đến ngày 24/7/2017, bà U đi điều trị bệnh tại Bệnh viện đa khoa Hoàn Mỹ Minh Hải và theo giấy chứng nhận thương tích số 45/CN-HMMH ngày 16/11/2018 chẩn đoán chấn thương nông ở đầu và mặt – gối phải. Sau đó đến ngày 26/7/2017, bà U nhập viện điều trị tại Bệnh viện đa khoa Hoàn Mỹ đến ngày 29/7/2017 xuất viện. Theo tóm tắt bệnh án đối với Trần Thị U: Chẩn đoán lúc vào viện Chấn thương mặt – lưng do bị đánh và chấn thương lúc ra viện đa chấn thương phần mền.
Theo bà T xác định nguyên nhân đánh bà U là do bà U có quan hệ bất chính với chồng bà là ông Nguyễn Văn V và bà có lưu giữ đoạn ghi âm cuộc nói chuyện giữa ông V với bà U thể hiện bà U có quan hệ bất chính với ông V nhưng bà T không đồng ý cung cấp cho Tòa án. Do bà T không đưa ra được chứng cứ chứng minh bà U có quan hệ bất chính với ông V và phía nguyên đơn cũng không thừa nhận. Nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xác định nguyên nhân các bị đơn đánh bà U là do có lỗi của bà U. Vì vậy, bà T, chị T và anh L phải có trách nhiệm liên đới bồi thường toàn bộ thiệt hại trên cho bà U theo quy định tại Điều 585, Điều 587 Bộ luật dân sự.
[3] Về số tiền bồi thường: Tại đơn khởi kiện bà U yêu cầu bà T, chị T và anh L có trách nhiệm liên đới bồi thường tổng số tiền 15.000.000 đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa, bà U xác định chỉ yêu cầu các bị đơn bồi thường chi phí điều trị thương tích và tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm với tổng số tiền 14.680.000 đồng. Xét thấy việc nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
Đối với yêu cầu bồi thường chi phí điều trị: Tại đơn khởi kiện, bà U yêu cầu bồi thường 5.000.000 đồng. Tuy nhiên tại phiên tòa, bà U yêu cầu bồi thường 4.680.000 đồng gồm các khoản: Tiền thuốc và nằm viện điều trị 3.500.000 đồng, tiền ăn của người bệnh và người nuôi bệnh: 300.000 đồng, tiền xe ôm đi lại của người bệnh và người nuôi bệnh: 280.000 đồng, tiền mất thu nhập của người bệnh và người nuôi bệnh: 600.000 đồng. Xét thấy, yêu cầu bồi thường chi phí điều trị trên của bà U phù hợp với các hóa đơn chứng từ (tại các bút lục từ số 116 đến 125) và phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
Đối với yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần số tiền 10.000.000 đồng. Xét thấy theo khoản 2 Điều 590 Bộ luật dân sự người gây thiệt hại phải bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần. Tuy nhiên yêu cầu bồi thường của bà U đưa ra là cao vì thực tế nguyên đơn chỉ bị chấn thương phần mền và hậu quả gây ra không lớn. Nên cần chấp nhận mức bồi thường bằng 3 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định tương ứng với số tiền: 3 x 1.390.000 đồng/tháng = 4.170.000 đồng.
Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà U, buộc bà T, chị T và anh L liên đới bồi thường số tiền 8.850.000 đồng. Bà T, chị T và anh L mỗi người có trách nhiệm bồi thường cho bà U 2.950.000 đồng. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà U về việc yêu cầu bà T, chị T và anh L liên đới bồi thường số tiền 5.830.000 đồng.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà U không phải chịu, bà T, chị T và anh L phải chịu theo quy định của pháp luật.
[5] Về quyền kháng cáo: Bà T đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi tuyên án mà không có lý do chính đáng nên được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 244 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 587 và Điều 590 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1.Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị U. Buộc bà Nhan Thị T, chị Nguyễn Bích T và anh Nguyễn Vũ L liên đới bồi thường cho bà Trần Thị U số tiền 8.850.000 (tám triệu tám trăm năm mươi nghìn) đồng.
Bà Nhan Thị T, chị Nguyễn Bích T và anh Nguyễn Vũ L mỗi người có trách nhiệm bồi thường cho bà U số tiền 2.950.000 (hai triệu chín trăm năm mươi nghìn) đồng.
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị U về việc yêu cầu bà Nhan Thị T, chị Nguyễn Bích T và anh Nguyễn Vũ L liên đới bồi thường số tiền 5.830.000 (năm triệu tám trăm ba mươi nghìn) đồng.
Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chậm thi hành khoản tiền trên, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản lãi suất chậm thi hành theo mức lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng số tiền và thời gian chậm thi hành.
2. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị U không phải chịu. Bà Nhan Thị T, chị Nguyễn Bích T và anh Nguyễn Vũ L mỗi người phải chịu 300.000 đồng (chưa nộp).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bà Trần Thị U và bà Nhan Thị T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Nguyễn Bích T và anh Nguyễn Vũ L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 01/2019/DS-ST ngày 02/01/2019 về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
Số hiệu: | 01/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 02/01/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về