TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN PHƯỚC, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 04/2018/DS-ST NGÀY 09/02/2018 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM
Ngày 09 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 69/2017/TLST-DS ngày 19 tháng 10 năm 2017 về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2018/QĐXXST-DS ngày 02 tháng 01 năm 2018 và Quyết định hoãn phiêntòa số 02/QĐST-DS ngày 24 tháng 01 năm 2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Huỳnh Văn T, sinh năm: 1980, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 02, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam; chỗ ở hiện nay: Thôn 10, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
2. Bị đơn: Ông Phùng Thanh C, sinh năm 1981, địa chỉ: Thôn 07, xã T,huyện T, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
3. Người làm chứng:
- Ông Huỳnh Ngọc T, sinh năm 1979, địa chỉ: Thôn 07, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam;
- Ông Trần Quang T, sinh năm 1970, địa chỉ: Thôn 07, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam;
- Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1977, địa chỉ: Thôn 10, xã T, huyện T, tỉnhQuảng Nam;
- Ông Nguyễn Thành T, sinh năm 1973, địa chỉ: Thôn 10, xã T, huyện T,tỉnh Quảng Nam;
Những người làm chứng đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo của nguyên đơn ông Huỳnh Văn T thể hiện: Ông có hợp đồng khai thác keo với ông Lê Văn T, trú tại: Thôn 06, xã T, huyện T. Ông Trần Quang T, ông Huỳnh Ngọc T, ông Phùng Thanh C không trực tiếp hợp đồng, thỏa thuận với ông. Vào khoảng lúc 19 giờ 00 phút ngày 10 tháng 01 năm 2017, ông Huỳnh Văn T đang ở nhà nói chuyện với hai người em bà con ở Phước Long về thăm thì ông T, ông T, ông C đến hỏi tiền công làm keo. Ông T mời ba người vào nhà uống nước thì hai người em của ông T ra về. Ông C và ông T hỏi vì sao cuối năm rồi mà không trả tiền cho anh em mua đồ tết. Ông T nói “Các anh điện thoại cho tổ trưởng là ông Lê Văn T, trú tại: Thôn 06, Tiên Lãnh xuống để tính toán thiếu đủ bao nhiêu, cho anh em ứng tiền ăn tết”. Ông C và ông T nói “Tau làm công cho mày, tau lấy tiền ở mày”.Ông T nói cần thì điện ông Lê Văn T xuống. Ông C và ông T nói “Mày ù lì với tau hả?”. Sau đó, ông Phùng Thanh C dùng tay đánh ông T gây thương tích, bị dập mi mắt trái, gãy 02 xương sườn số 8 và 9 phải nhập viện điều trị từ ngày 10 đến ngày 17 tháng 01 năm 2017. Khi ông T tỉnh dậy thì thấy cả 03 ông còn đứng ở bậc sân, trên đường đi về. Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông C bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho ông với số tiền 11.906.000 đồng, gồm các khoản cụ thể sau:
- Tiền xe cấp cứu: 1.000.000 đồng,
- Tiền giám định: 1.215.000 đồng,
- Tiền xe đi giám định sau khi xuất viện: 70.000 đồng,
- Tiền ăn đi giám định: 25.000 đồng,
- Tiền viện phí: 1.389.000 đồng,
- Tiền chụp X-quang: 152.000 đồng,
- Tiền thuốc theo hóa đơn: 370.000 đồng (riêng khoản 70.000 đồng tiền thuốc tự mua không Theo hóa đơn, ông T không yêu cầu),
- Tiền công lao động của ông T trong 07 ngày nằm viện: 250.000 đồng/ngày x 07 ngày = 1.750.000 đồng,
- Tiền công người nuôi trong 06 ngày ông T nằm viện: 150.000 đồng/ ngày x 06 ngày = 900.000 đồng,
- Tiền xe ông T xuất viện đi về (đi xe buýt): 35.000 đồng,
- Tiền bồi dưỡng sức khỏe cho ông T sau khi xuất viện trong 50 ngày: 5.000.000 đồng.
Tại bản tự khai ngày và các lời khai tiếp theo của bị đơn ông Phùng Thanh C thể hiện: ông Trần Quang T, ông Huỳnh Ngọc T, ông Phùng Thanh C có nhận làm keo cho ông Huỳnh Văn T. Sắp đến tết, các ông cần tiền để chi tiêu cho gia đình nhưng điện thoại nhiều lần, ông T không bắt máy, nên ba ông mới rủ nhau xuống nhà ông T để hỏi tiền; tại đây, trong lúc nói chuyện, ông T và ông T có cãi qua cãi lại với nhau về chuyện nợ tiền keo. Ông T không chịu trả tiền nên ông T và ông T đứng dậy ra về, ông C cũng chuẩn bị ra về theo. Ông T dùng tay đánh ông C vào bả vai trái, ông C dùng tay trái huơ ra làm ông T ngã cùng với cái ghế inox. Sau đó, ông C bỏ chạy; ông T và ông T còn ở lại.
Ông C thừa nhận: Sự việc này chỉ có một mình ông C làm cho ông T bị ngã, gây thương tích. Còn ông T và ông T không có đánh ông T. Việc ông T đánh ông C vào bả vai không gây thương tích gì, ông không nhập viện điều trị. Trong sự việc này, ông T là người đánh ông trước nên ông chỉ chấp nhận bồi thường cho ông T số tiền 1.981.000 đồng (tiền thuốc, tiền chụp X-quang, tiền viện phí). Còn các khoản khác ông không chấp nhận bồi thường.
Tại biên bản ghi lời khai, người làm chứng ông Huỳnh Ngọc T thể hiện: Vào tối ngày 10/01/2017, ông T cùng ông Trần Quang T và ông Phùng Thanh C đến nhà ông Huỳnh Văn T để hỏi tiền công làm keo mà ông T còn thiếu. Tại đây, các bên có lời qua tiếng lại với nhau và ông T không chịu trả. Khi ông T chuẩn bị ra về, bước ra được khoảng 4 đến 5 mét, nghe tiếng la quay lại thì thấy ông T dùng tay đánh vào sau vai ông C, ông C dùng tay đấm lại ông T một cái, sau đó cả hai ôm vật nhau dưới đất. Sau khi sự việc xô xát giữa ông T và ông C xảy ra xong thì ông T có đánh ông T, ông T tát ông T 01 bạt tai, đấm và xáng đá ông T nhưng trúng hay không thì ông không biết.
Tại các biên bản ghi lời khai, người làm chứng ông Trần Quang T thể hiện: Vào tối ngày 10/01/2017, ông T cùng ông T, ông C đến nhà ông T để hỏi tiền công làm keo. Tại đây, các bên có lời qua tiếng lại với nhau, ông T không trả mà còn có lời lẽ thách thức “Tau không trả mi làm chi”. Khi ông bước ra xuống bậc hiên nhà ông T để ra về thì nghe tiếng la, ông quay lại thấy ông T dùng tay đánh vào sau vai ông C, ông C dùng tay đấm ông T một cái (nhưng ông không rõ vị trí), sau đó cả hai ôm vật nhau ngã mạnh xuống đất. Sau khi sự việc xô xát giữa ông T và ông C xảy ra xong, ông Nguyễn Thành T đến bờ sân nhà ông T, ông T đánh ông T trước; ông T dùng tay đánh lại ông T nhưng không xác định được trúng hay không và có cúi xuống rồi sau đó vung tay lên nhưng không không biết ông T có cầm vật gì trong tay để vung không và có trúng ông T không.
Tại biên bản ghi lời khai và tại phiên tòa hôm nay, người làm chứng bà Nguyễn Thị T thể hiện: Khi bà về nhà thì thấy một mình ông T ở nhà. Tình trạng ông T lúc đó là van đau ở xương sườn, mặt bị bầm, ói ra máu. Và 03 ghế inox của nhà bị đập móp méo.
Tại biên bản ghi lời khai, người làm chứng ông Nguyễn Thành T thể hiện: ông nghe bà Nguyễn Thị T (là em ruột của ông) gọi điện thoại thì ông đến, lúc đó thì sự việc xô xát đã xảy ra xong, ông đưa ông T đi cấp cứu. Ông không có xô xát với ông T.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng; bị đơn ông Phùng Thanh C đã không Thực hiện đúng nghĩa vụ của đương sự khi tham gia tố tụng. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận chi phí đi giám định thương tích là 1.310.000 đồng (gồm tiền giám định: 1.215.000 đồng, tiền xe đi giám định sau khi xuất viện: 70.000 đồng, tiền ăn đi giám định: 25.000 đồng); công nhận khoản tiền 1.911.000 đồng (gồm tiền viện phí, tiền chụp X-quang và tiền thuốc) mà ông C đồng ý bồi thường cho ông T; chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông T, buộc ông C bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho ông T gồm các khoản sau: Tiền xe cấp cứu: 1.000.000 đồng, tiền công lao động của ông T trong 07 ngày nằm viện là 1.750.000 đồng, tiền xe ông T xuất viện đi về là 35.000 đồng, tiền công người nuôi trong thời gian 06 ngày là 900.000 đồng; và chấp nhận một phần yêu cầu của ông T về khoản tiền bồi dưỡng sức khỏe sau khi xuất viện về.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Phùng Thanh C đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do chính đáng. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh Văn T thì thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án, ông C thừa nhận có dùng tay đấm ông T một cái. Và tại Bản trình bày ngày 17/01/2017, Biên bản ghi lời khai lập ngày 18/01/2017 tại Công an xã T, huyện T, ông C thừa nhận có ôm vật với ông T dưới nền nhà. Nguyên đơn ông Huỳnh Văn T không thừa nhận việc đánh ông C trước, còn hai người có ôm vật nhau dưới đất không thì ông không nhớ vì sau khi bị ông C đánh thì ông bất tỉnh. Sự việc xảy ra, ngoài những người làm chứng ông Trần Quang T và ông Huỳnh Ngọc T thì không có ai chứng kiến cả. Cả ông T và ông T đều khai có nhìn thấy ông T đánh vào sau vai ông C, ông C dùng tay đấm ông T một cái, sau đó cả hai ôm vật nhau dưới đất. Tuy nhiên, ông T và ông T đều là những người cùng đi làm keo với ông C, cùng đến nhà ông Huỳnh Văn T để đòi tiền công làm keo nên lời khai của ông T và ông T chưa thực sự đảm bảo độ tin cậy và khách quan. Trong khi đó ông T không thừa nhận việc đánh ông C trước nên Hội đồng xét xử xét thấy không có đủ cơ sở để khẳng định ôngT có đánh ông C.
Ngoài ra, những người làm chứng ông Huỳnh Ngọc T và ông Trần Quang T cho rằng khi sự việc xô xát giữa ông T và ông C xảy ra thì ông Nguyễn Thành T có đánh ông T nhưng đều không xác định được là có trúng hay không; còn ông T thì khai không bị ông T đánh, ông T không thừa nhận việc có đánh ông T. Tòa án đã tiến hành đối chất giữa những người làm chứng với nhau, giữa người làm chứng và đương sự; tuy nhiên không có cơ sở để khẳng định ông T đánh ông T gây thương tích.
Căn cứ lời khai của những người làm chứng, bản giám định thương tích, lời khai của các bên đương sự và các tài liệu, chứng cứ khác, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào tối ngày 10/01/2017, tại nhà của bà Nguyễn Thị T (là người ông Huỳnh Văn T đang chung sống) ở Thôn 10, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam, các ông Trần Quang T, Phùng Thanh C và Huỳnh Ngọc T có hỏi ông T về tiền công làm keo. Ông T không trả tiền vì ông trực tiếp hợp đồng với ông Lê Văn Tỉnh, trú tại: Thôn 06, xã T, huyện T chứ không hợp đồng trực tiếp với những người này và các bên có lời qua tiếng lại với nhau. Sau đó, ông C dùng tay đấm ông T một cái và cả hai ôm vật nhau dưới đất. Hậu quả, ông T bị dập mi mắt trái, gãy xương sườn số 8 và số 9 bên trái phải nhập viện điều trị từ ngày 10 đến ngày 17 tháng 01 năm 2017, tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 06%. Vì vậy, ông T bị thương tích là thực tế, phù hợp với giấy ra viện và bản giám định thương tích của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Nam. Còn ông C bị thương tích không đáng kể và không nhập viện điều trị. Sự việc trên, bị đơn ông Phùng Thanh C bị Ủy ban nhân dân xã T, huyện T ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi “xâm hại đến sức khỏe của người khác” (Quyếtđịnh xử phạt vi phạm hành chính số 21/QĐ-XPHC ngày 15/3/2017).
[2.2]. Xét các khoản chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe mà ông T yêu cầu ông C bồi thường thì thấy:
Tại bản tự khai và lời trình bày của ông C tại phiên hòa giải ngày 01/11/2017 thể hiện: ông C chấp nhận bồi thường cho ông T số tiền 1.981.000 đồng (gồm: tiền viện phí: 1.389.000 đồng, tiền chụp X-quang: 152.000 đồng, tiền thuốc 440.000 đồng). Tại Biên bản ghi lời khai ngày 13/11/2017 và tại phiên tòa hôm nay, ông T chỉ yêu cầu tiền thuốc 370.000 đồng, riêng hóa đơn mua thuốc 70.000 đồng mà ông T tự mua nên ông không yêu cầu nữa. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần công nhận sự tự nguyện của ông Phùng Thanh C về việc bồi thường một phần chi phí điều trị cho ông T với số tiền 1.911.000 đồng, gồm: tiền viện phí: 1.389.000 đồng, tiền chụp X-quang: 152.000 đồng,tiền thuốc 370.000 đồng.
Ngoài ra, xét các khoản yêu cầu khác thì thấy: Khoản tiền xe cấp cứu:1.000.000 đồng, tiền công lao động của ông T trong 07 ngày nằm viện: 250.000 đồng/ngày x 07 ngày = 1.750.000 đồng, tiền xe ông T xuất viện đi về (đi xe buýt): 35.000 đồng, tiền công người nuôi trong thời gian 06 ngày với số tiền 900.000 đồng (mỗi ngày 150.000 đồng) là các khoản thực tế, có cơ sở, phù hợp và đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận.
Đối với khoản tiền bồi dưỡng sức khỏe cho ông T sau khi xuất viện trong 50 ngày: Ông T yêu cầu là 5.000.000 đồng nhưng với tỷ lệ thương tích và tổn hại sức khỏe của ông T là 6%, hơn nữa theo giấy ra viện bác sĩ không có chỉ định thời gian phục hồi sức khỏe mà yêu cầu tái khám kiểm tra sau 01 tháng, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận khoản bồi dưỡng cho ông T sau khi xuất viện trong thời gian 30 ngày là 3.000.000 đồng (mỗi ngày 100.000 đồng).
Còn chi phí cho việc giám định sau khi xuất viện với số tiền 1.310.000 đồng, gồm: tiền giám định: 1.215.000 đồng, tiền xe đi giám định: 70.000 đồng, tiền ăn đi giám định: 25.000 đồng không phải là chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe theo Điều 590 Bộ luật Dân sự cũng như Phần II Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.
Như vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận các khoản bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm đối với ông T là 6.685.000 đồng và công nhận khoản tiền 1.911.000 đồng mà ông C chấp nhận bồi thường; tổng cộng ông C bồi thường cho ông T số tiền 8.596.000 đồng.
[2.3]. Xét về lỗi trong vụ việc này thì thấy: Ông Huỳnh Văn T chỉ thỏa thuận làm keo với ông Lê Văn T, trú tại: Thôn 06, xã T, huyện T chứ không thỏa thuận với ông T, ông T và ông C; ông Lê Văn T là người đứng ra ứng tiền của nguyên đơn ông T nên việc tính toán tiền công làm keo là do ông Huỳnh Văn T và ông Lê Văn T tự giải quyết với nhau. Khi ông T, ông T, ông C đến đòi tiền công làm keo thì ông T yêu cầu gọi điện ông Lê Văn T đến để tính toán. Tại Biên bản ghi lời khai ngày 17/01/2017 của Công an xã Tiên Lãnh đối với ông Huỳnh Ngọc T (BL 58) thể hiện: Khi nguyên đơn yêu cầu gọi ông Lê Văn T xuống để tính tiền công, ông T có gọi điện cho ông Lê Văn T, trong khi chờ ông T xuống thì sự việc xô xát đã xảy ra. Vì vậy, lỗi trong việc gây thương tích cho ông Huỳnh Văn T là do ông Phùng Thanh C gây ra. Ông C phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho ông T.
[2.4]. Bị đơn ông Phùng Thanh C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu của ông T được chấp nhận. Do nguyên đơn ông Huỳnh Văn T yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu không được chấp nhận.
[2.5]. Từ những nhận định nêu trên, xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên cần phải chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 584, 585, 586, 590 của Bộ luật Dân sự; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”, xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh Văn T:
Công nhận sự tự nguyện của ông Phùng Thanh C về việc bồi thường mộtphần thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho ông Huỳnh Văn T với số tiền: 1.911.000 đồng (Một triệu chín trăm mười một ngàn đồng y).
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh Văn T: Buộc ông Phùng Thanh C bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho ông Huỳnh Văn T với số tiền tổng cộng là 6.685.000 đồng (Sáu triệu sáu trăm tám mươi lăm ngàn đồng y).
Tổng cộng các khoản ông Phùng Thanh C bồi thường cho ông Huỳnh Văn T là 8.596.000 đồng (Tám triệu năm trăm chín mươi sáu ngàn đồng).
- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh Văn T về việc yêu cầu bồi thường chi phí giám định với số tiền 1.310.000 đồng (Một triệu ba trăm mười ngàn đồng y).
Kể từ ngày ông T có đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền nêu trên cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng ông C còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
-Về án phí: Ông Phùng Thanh C chịu 428.000 đồng (Bốn trăm hai mươi tám ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (09/02/2018). Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 04/2018/DS-ST ngày 09/02/2018 về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
Số hiệu: | 04/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiên Phước - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 09/02/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về