Mẫu bài chính luận đấu tranh với bệnh đùn đẩy sợ trách nhiệm? Giáo viên là Đảng viên có những quyền gì?
Mẫu bài chính luận đấu tranh với bệnh đùn đẩy sợ trách nhiệm?
Tham khảo các ý chính trong bài chính luận đấu tranh với bệnh đùn đẩy sợ trách nhiệm như sau:
Dàn ý Đấu Tranh Với Bệnh Đùn đẩy sợ trách nhiệm Mở bài - Giới thiệu về sự cần thiết của tinh thần trách nhiệm trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đặt vấn đề: bệnh "đùn đẩy, sợ trách nhiệm" đang trở thành vấn nạn cần giải quyết. - Thực trạng bệnh "đùn đẩy, sợ trách nhiệm" - Cán bộ, đảng viên né tránh quyết định khó khăn, đùn đẩy trách nhiệm. Tình trạng thiếu tinh thần gương mẫu và lẩn tránh trách nhiệm. - Nguyên nhân + Sợ sai, sợ hậu quả cá nhân. + Thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ. + Thiếu động lực và sự ghi nhận. + Văn hóa né tránh trách nhiệm trong một số cơ quan. - Hậu quả + Giảm hiệu quả công tác, trì trệ trong công việc. + Tổn hại uy tín của Đảng, giảm niềm tin của nhân dân. + Môi trường làm việc thiếu minh bạch, kỷ cương. - Giải pháp + Giáo dục về tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ. + Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh. + Khuyến khích, ghi nhận những cán bộ dám nhận trách nhiệm. + Lãnh đạo làm gương trong việc chịu trách nhiệm. + Xây dựng cơ chế bảo vệ, động viên cán bộ dám chịu trách nhiệm. Kết bài Tầm quan trọng của việc đấu tranh với bệnh "đùn đẩy, sợ trách nhiệm" để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững mạnh, hiệu quả và xứng đáng với sự tin tưởng của nhân dân. |
Mẫu bài chính luận đấu tranh với bệnh đùn đẩy sợ trách nhiệm
Trong bất kỳ tổ chức nào, đặc biệt là hệ thống chính trị, trách nhiệm cá nhân và tập thể luôn là yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả công việc và sự phát triển bền vững. Cán bộ, đảng viên không chỉ là những người thực thi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, mà còn là tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống và tinh thần trách nhiệm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, không ít cán bộ, đảng viên hiện nay mắc phải căn bệnh “đùn đẩy, sợ trách nhiệm”, tạo ra những hệ lụy nghiêm trọng, làm chậm tiến trình đổi mới và suy giảm lòng tin của nhân dân đối với bộ máy công quyền. Đây không chỉ là vấn đề cá nhân mà còn là một thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi phải có những giải pháp quyết liệt để loại bỏ tận gốc tư tưởng tiêu cực này. Hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm trong đội ngũ cán bộ, đảng viên không phải là vấn đề mới, nhưng trong bối cảnh hiện nay, nó đang trở thành rào cản lớn đối với sự phát triển. Không khó để nhận thấy những biểu hiện rõ ràng của căn bệnh này: một số cán bộ, khi đối diện với công việc khó khăn, thay vì chủ động giải quyết, lại chọn cách trì hoãn, né tránh hoặc đẩy trách nhiệm cho cấp dưới, thậm chí chờ chỉ đạo từ cấp trên một cách máy móc. Khi có thành công, họ sẵn sàng nhận công về mình, nhưng khi có sai sót, ngay lập tức đổ lỗi cho hoàn cảnh hoặc người khác. Cũng có những người, vì sợ ảnh hưởng đến vị trí, quyền lợi của bản thân, nên không dám đưa ra quyết định, không dám đổi mới, cải cách mà chỉ làm việc cầm chừng, đối phó. Vậy điều gì đã dẫn đến tình trạng này? Trước hết, đó là tâm lý sợ sai, sợ mất chức, mất quyền lợi. Trong một môi trường mà trách nhiệm chưa được quy định rõ ràng, sai sót có thể bị quy kết trách nhiệm cá nhân một cách nặng nề, nhiều cán bộ chọn cách an toàn, né tránh thay vì dám nghĩ, dám làm. Thứ hai, sự thiếu minh bạch trong cơ chế đánh giá, giám sát cũng là nguyên nhân quan trọng khiến cho nhiều người không có động lực để chủ động nhận trách nhiệm. Khi mà những người tận tâm, dám làm, dám chịu trách nhiệm không được khen thưởng xứng đáng, trong khi những người lẩn tránh trách nhiệm lại vẫn giữ nguyên vị trí, thậm chí được thăng tiến nhờ quan hệ hoặc tư duy nhiệm kỳ, thì tâm lý "đứng ngoài cuộc" là điều dễ hiểu. Ngoài ra, trách nhiệm tập thể đôi khi bị lạm dụng, biến thành “bình phong” để cá nhân tránh né hậu quả. Khi có sai phạm, trách nhiệm bị pha loãng, không ai chịu đứng ra nhận lỗi, dẫn đến tình trạng "hòa cả làng", gây mất kỷ cương, nguyên tắc trong quản lý. Tình trạng này nếu không được khắc phục sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Trước hết, nó làm chậm tiến độ thực hiện các chính sách, chương trình phát triển, khiến đất nước mất đi những cơ hội bứt phá quan trọng. Khi cán bộ không dám quyết, không dám chịu trách nhiệm, các dự án bị đình trệ, các kế hoạch bị trì hoãn, dẫn đến lãng phí tài nguyên và cơ hội. Thứ hai, nó làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Nhân dân mong đợi một bộ máy công quyền quyết liệt, dám làm, dám chịu trách nhiệm, chứ không phải một hệ thống vận hành trì trệ vì nỗi sợ hãi và sự vô trách nhiệm của một bộ phận cán bộ. Cuối cùng, nó tạo ra một môi trường làm việc thiếu minh bạch, kém hiệu quả, nơi mà trách nhiệm bị đùn đẩy, công việc bị đình trệ, và những người có năng lực, có trách nhiệm thực sự không có cơ hội phát huy hết khả năng của mình. Để giải quyết vấn đề này, điều quan trọng nhất là phải tăng cường trách nhiệm cá nhân trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình, không thể chỉ làm tròn nhiệm vụ theo hình thức mà phải chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm. Cần có một cơ chế giám sát và đánh giá công bằng, trong đó những người có tinh thần trách nhiệm phải được ghi nhận, khen thưởng xứng đáng, trong khi những người né tránh, đùn đẩy trách nhiệm cần phải bị xử lý nghiêm minh. Bên cạnh đó, lãnh đạo phải làm gương, thể hiện sự quyết đoán trong hành động và tinh thần chịu trách nhiệm cao, để tạo động lực cho cấp dưới. Một khi lãnh đạo sợ trách nhiệm, né tránh khó khăn, thì cấp dưới cũng không thể nào làm việc hiệu quả. Ngoài ra, cần phải cải cách cơ chế phân công trách nhiệm, đảm bảo rằng trách nhiệm cá nhân và tập thể được xác định rõ ràng, tránh tình trạng pha loãng trách nhiệm, không ai chịu trách nhiệm cuối cùng. Bệnh “đùn đẩy, sợ trách nhiệm” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ là vấn đề của cá nhân mà còn là vấn đề của cả hệ thống. Nếu không có giải pháp triệt để, nó sẽ trở thành rào cản lớn trong sự phát triển của đất nước. Một bộ máy lãnh đạo hiệu quả phải là một bộ máy mà ở đó, mỗi cá nhân đều có tinh thần trách nhiệm, dám làm, dám chịu. Chỉ khi từng cán bộ, đảng viên nhận thức rõ về trách nhiệm của mình và hành động một cách quyết liệt, chúng ta mới có thể xây dựng một hệ thống chính trị minh bạch, vững mạnh, xứng đáng với sự tin tưởng của nhân dân. Trách nhiệm không phải là gánh nặng, mà là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người khi được trao quyền và trọng trách. Đã khoác lên mình tấm áo của một người cán bộ, đảng viên, thì không thể chỉ biết giữ cho mình sự an toàn cá nhân, mà phải luôn đặt lợi ích của tập thể, của nhân dân lên trên hết. Muốn đất nước phát triển mạnh mẽ, trước hết phải loại bỏ tâm lý sợ trách nhiệm, phải xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng viên dám nghĩ, dám làm, và dám chịu trách nhiệm. |
Lưu ý: Mẫu bài chính luận đấu tranh với bệnh đùn đẩy sợ trách nhiệm chỉ mang tính chất tham khảo.
Mẫu bài chính luận đấu tranh với bệnh đùn đẩy sợ trách nhiệm? Giáo viên là Đảng viên có những quyền gì? (Hình từ Internet)
Giáo viên là Đảng viên có những quyền gì?
Căn cứ Điều 3 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 quy định khi là Đảng viên thì giáo viên có những quyền như sau:
Quyền [1] Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.
Quyền [2] Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
Quyền [3] Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.
Quyền [4] Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.
Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Nội dung chương trình học tập bắt buộc của Đảng viên?
Căn cứ Điều 2 Quy định 54-QĐ/TW năm 1999 có 07 nội dung chương trình học tập bắt buộc của Đảng viên bao gồm:
(1) Đảng viên trong thời gian dự bị phải học xong chương trình bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho đảng viên mới.
Đảng viên chính thức tuỳ theo yêu cầu trách nhiệm và trình độ lý luận chính trị đã được đào tạo để lựa chọn chương trình học tập phù hợp, cụ thể như sau:
- Đảng viên ở cơ sở học xong chương trình lý luận chính trị sơ cấp tại trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, và phải có kế hoạch thường xuyên học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị. Đảng viên là cán bộ, công chức, cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước phải có trình độ lý luận chính trị theo tiêu chuẩn chức danh đã ban hành. Đối với cán bộ, công chức chưa phải là đảng viên, việc học tập lý luận chính trị thực hiện theo quy định tại Pháp lệnh công chức. Đảng viên là người dân tộc thiểu số và đảng viên ở vùng sâu, vùng xa có trình độ văn hoá thấp, học chương trình lý luận chính trị sơ cấp được biên soạn riêng.
- Đảng viên trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội học tập các chương trình lý luận chính trị nêu trong bản quy định này theo sự chỉ đạo của các đảng uỷ khối nơi sinh hoạt.
- Đảng viên trong các lực lượng vũ trang học tập các chương trình lý luận chính trị nêu trong bản quy định này, theo sự chỉ đạo của Đảng uỷ Quân sự Trung ương và Đảng uỷ Công an Trung ương.
- Đảng viên đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức tham gia học tập các nghị quyết của Đảng ở tổ chức cơ sở đảng nơi đảng viên cư trú được cấp uỷ định kỳ thông báo tình hình thời sự, chính sách trong nước và thế giới.
- Đảng viên có trình độ lý luận chính trị trung cấp hoặc đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng học các chương trình lý luận chuyên đề về kinh tế, văn hoá, xã hội... phù hợp với yêu cầu công tác.
- Đảng viên có trình độ lý luận cao cấp, đại học chính trị trở lên có kế hoạch tự học theo hướng dẫn của cơ quan phụ trách.
(2) Đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở, phải học xong chương trình trung học chính trị tại trường chính trị tỉnh, thành phố.
(3) Đảng viên là bí thư chi bộ và đảng uỷ viên, chi uỷ viên cơ sở học chương trình lý luận chính trị, nghiệp vụ quy định cho cấp uỷ cơ sở tại trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
(4) Đảng viên là công chức ngạch chuyên viên, là chuyên viên chính phải học xong chương trình trung cấp về lý luận chính trị, chuyên viên cao cấp phải học xong chương trình lý luận chính trị cao cấp.
(5) Đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện, quận và cán bộ lãnh đạo một số ban, ngành cấp tỉnh, một số doanh nghiệp.... (có quy định riêng) phải học xong chương trình lý luận chính trị cao cấp tại Phân viện thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
(6) Đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, thành, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ban, ngành Trung ương, uỷ viên thường vụ các đoàn thể Trung ương, ban giám đốc các tổng công ty, các doanh nghiệp lớn của nhà nước... (có quy định riêng) phải học xong chương trình lý luận chính trị cao cấp tại Trung tâm Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
(7) Tất cả đảng viên và cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp phải học tập quán triệt các nghị quyết của Đại hội Đảng, của Ban Chấp hành Trung ương thông qua các chương trình bồi dưỡng lý luận chính trị do Bộ Chính trị quy định cụ thể cho từng năm.