Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 115/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 115/2022/DS-PT NGÀY 11/05/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 11 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 10/2022/TLPT-DS ngày 17/01/2022, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2021/DS-ST ngày 15/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên bị kháng cáo.

Giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Phạm Minh H, sinh năm:1957; trú tại: thôn L, xã X, huyện Đ, Phú Yên. Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Ngô Minh T, Văn phòng Luật sư số 1, Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Bùi Văn T, sinh năm:1968; trú tại: thôn L, xã X, huyện Đ, Phú Yên. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. UBND huyện Đ Người đại diện ủy quyền, ông Phạm Trung C - Phó Chủ tịch UBND huyện Đ (văn bản ủy quyền ngày 15/11/2021). Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bà Nguyễn Thị D. Có mặt.

3. Bà Phạm Thị Duy H. Có mặt.

4. Ông Phạm Đình T. Có mặt.

5. Ông Phạm Minh Đ. Có mặt.

Cùng trú tại: thôn L, xã X, huyện Đ, Phú Yên.

Người đại diện ủy quyền của bà H, ông T, ông Đ có ông Phạm Minh H (văn bản ủy quyền ngày 15/10/2021,18/10/2021). Có mặt.

6. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1966; trú tại: thôn L, xã X, huyện Đ, Phú Yên. Có mặt.

Người kháng cáo: nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 19/11/2019, bản tự khai ngày 20/11/2020 và lời khai tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Phạm Minh H trình bày: Vào năm 1997 hộ gia đình ông có 5 nhân khẩu gồm: Phạm Minh H, Nguyễn Thị D, Phạm Thị Duy H, Phạm Đình T, Phạm Minh D được Nhà nước cân đối giao đất sản xuất trong đó có một đám ruộng có cái ao diện tích 600m2 tại xóm Đình, thôn L, xã X, huyện Đ, Phú Yên, gia đình làm trong 8 năm mà không có hiệu quả do đó năm 2005 ông có hợp đồng miệng cho ông Bùi Văn T thuê đất để cất quán làm bàn bi da với giá 1.200.000đ trong hạn 12 năm. Việc ông T cất nhà trên đất ông không biết. Đến năm 2006 Nhà nước có chính sách kê khai ruộng đất làm lại sổ đỏ ông bị bệnh nằm viện nên không biết ông T làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên phần ruộng thuê cuả ông diện tích 73m2 loại đất ở mang số thửa 166, tờ bản đồ 106 và diện tích ruộng công nhận cho ông chỉ còn 504m2 thuộc thửa 167, tờ bản đồ 106, số sổ AH 572103. Năm 2017 hết thời hạn cho thuê gia đình ông có gặp ông T yêu cầu trả lại đất thì vợ chồng ông T nói đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 73m2 nên giữa ông và ông T xảy ra tranh chấp. Nay ông khởi kiện yêu cầu ông Bùi Văn T phải tháo dỡ nhà cửa trả lại ông diện tích đất 73m2 đồng thời yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 579233, số vào sổ H 10670 do UBND huyện Đ đã cấp ngày 25/9/2006 cho ông T.

- Bị đơn ông Bùi Văn T trình bày: Nguyên trước đây vào năm 1995 ông có mua của ông Nguyễn Đức T một diện tích đất ao tại thôn L, xã X, huyện Đ, Phú Yên, năm 2000 ông cất nhà trên phần đất này, đến ngày 25/9/2006 ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ao này với diện tích 73m2, loại đất ở thuộc thửa 166, tờ bản đồ 106. Đối với đám ruộng ông thuê của ông Phạm Minh H vào năm 2005 là phần ruộng liền kề với cái ao ông mua của ông T, mục đích ông thuê là để trồng cỏ nuôi bò, khi thuê hai bên chỉ nói miệng, hết hạn hợp đồng năm 2018 ông đã trả lại ruộng cho ông H. Phần ruộng ông thuê của ông H là ruộng ông H nhận khoán của nhà nước không liên quan đến phần đất ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do đó ông không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện cuả nguyên đơn.

- Tại văn bản ngày 22/10/2021, Uỷ ban nhân dân huyện Đ trình bày: Năm 1997, hộ ông Phạm Minh H được cân đối giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm các thửa: thửa 82 tờ bản đồ số 3 diện 310m2 đất ở, thửa 455 bản đồ số 4 diện tích 300m2 và thửa 2A tờ bản đồ số 7 diện tích 2.260m2 đất sản xuất nông nghiệp. Theo bản đồ địa chính 299 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00407 ngày 08/7/1997 cho hộ ông H số thửa 455 nhưng thực tế ông H sử dụng số thửa 459 diện tích 390m2 liền kề với đất đang tranh chấp còn thửa 455 diện tích 840m2 cân đối cho hộ khác nằm xa vị trí tranh chấp do có sự nhầm lẫn về số thửa. Đối với diện tích đất tranh chấp theo tờ bản đồ số 4 đo theo Chỉ thị 199 năm 1993 diện tích đất hoang không thể hiện số thửa nhưng thực tế là cái ao do ông Nguyễn Đức P đào sử dụng trước năm 1975 sau đó giao lại cho con Nguyễn Đức T sau đó ông T bán lại cho ông Bùi Văn T. Năm 2006 thực hiện dự án đo đạc bản đồ địa chính Đa dạng hóa nông thôn ngày 25/9/2006 UBND huyện Đ đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 579233, số vào sổ H 10670 diện tích 73m2, loại đất ở nông thôn thuộc thửa 166, tờ bản đồ 106 cho ông T. Toàn bộ diện tích đất cấp cho hộ ông H không liên quan đến phần đất đã cấp cho ông T và việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T là có căn cứ pháp luật do đó UBND huyện Đ không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông T.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà D, H,T, Điện thống nhất ý kiến như trình bày của nguyên đơn.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà T thống nhất ý kiến như trình bày của nguyên đơn.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2021/DS-ST ngày 15/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên quyết định:

Căn cứ Điều 100, 203 Luật Đất đai 2013; Điều 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Minh H.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng khác, quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật.

- Ngày 30/11/2021, nguyên đơn ông Phạm Minh H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị D, Phạm Thị Duy H, Phạm Đình T và Phạm Minh Đ có đơn kháng cáo đề nghị tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại theo hướng hủy án sơ thẩm, vì tòa sơ thẩm xử không đúng pháp luật.

Tại phiên tòa Đại diên Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án:

- Về việc chấp hành pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Minh H, bà Nguyễn Thị D, chị Phạm Thị Duy H, anh Phạm Đình T và anh Phạm Minh Đ; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng; Xét thấy:

[1] Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Phạm Minh H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị D, Phạm Thị Duy H, Phạm Đình T và Phạm Minh Đ, nhận thấy:

[1.1] Về diện tích và các thửa đất đã cấp cho ông Phạm Minh H: Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00407 do UBND huyện Đ cấp ngày 02/7/1997 cho hộ ông Phạm Minh H thì hộ gia đình ông H đã được Nhà nước cân đối cấp đất bao gồm thửa 82 tờ bản đồ số 3 diện tích 310m2 đất ở, thửa 2A tờ bản đồ số 7 diện tích 2.260m2 và thửa 455 tở bản đồ số 4 diện tích 300m2 (thực tế hộ ông H được cân đối sử dụng thửa 459 diện tích 390m2 còn thửa 455 diện tích 840m2 được cân đối cho hộ khác do có sự nhầm lẫn số thửa khi ghi chép) đều là đất sản xuất nông nghiệp thôn L, xã X, huyện Đ, tỉnh Phú Yên. Năm 2006, thực hiện dự án đo đạt bản đồ địa chính đa dạng hóa nông thôn, ông H được cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 572103 ngày 25/9/2006 mang số thửa 167 tờ bản đồ 106 diện tích 504m2, loại đất trồng lúa, nguyên trước đây là thửa 455, thửa 459, tờ bản đồ số 4, diện tích 300m2, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00407 do UBND huyện Đ cấp ngày 02/7/1997.

[1.2] Về diện tích 73m2 đất tranh chấp:

- Theo hồ sơ địa chính thực hiện theo Chỉ thị 299/TTg, tờ bản đồ số 4 thì diện tích đất này được xác định là đất hoang.

- Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 579233 do UBND huyện Đ cấp ngày 25/9/2006 cho ông Bùi Văn T với diện tích 73m2, loại đất ở nông thôn, số thửa 166, tờ bản đồ 106.

- Tại Biên bản xác minh ngày 27/5/2021 do Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên thực hiện, ông Trần Trung T là người tại địa phương, nguyên là cán bộ địa chính xã X, huyện Đ, xác định: “Nguyên trước đây phần đất ruộng thửa 459 hiện đang cân đối cho hộ ông H và đất đang tranh chấp là do ông Nguyễn Đức P khai hoang và sử dụng trước năm 1975. Quá trình sử dụng ông P có đào ao (đất đang tranh chấp). Đến năm 1979, đất đai của ông P đưa vào hợp tác xã, sau đó hợp tác xã khoán lại cho ông P sử dụng, đến năm 1997 thực hiện chính sách theo Nghị định 64/CP thì phần đất ruộng thửa 459 cân đối cho hộ ông H, còn phần đất ao thì ông P và ông T (con ông P) sử dụng. Tuy nhiên trên bản đồ địa chính thì đất này thể hiện đất hoang, sau đó ông P chuyển nhượng cho ông T” (BL 60).

- Tại Bản tự khai ngày 06/10/2021, ông Nguyễn Đức T trình bày: “Trước đây ba tôi là ông Nguyễn Đức P có làm cái ao từ năm 1976 cho đến năm 1991 ba tôi bệnh chết. Từ đó tôi vẫn sử dụng cho đến năm 1995...tôi bán lại cho ông Bùi Văn T” (BL 75).

[1.3] Từ viễn dẫn trên, nhận thấy diện tích đất tranh chấp (thửa số 166, tờ bản đồ 106 Nhà nước không cân đối và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông P; đồng thời có đủ căn cứ xác định diện tích đất tranh chấp là do ông T nhận chuyển nhượng lại của ông Nguyễn Đức T và quá trình sử dụng, ông T kê khai và được UBND huyện Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, án sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Minh H là có căn cứ.

Ông Phạm Minh H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị D, Phạm Thị Duy H, Phạm Đình T và Phạm Minh Đ kháng cáo nhưng không có tài liệu, chứng cứ nào mới có thể làm thay đổi nội dung vụ án, nên Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[2] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

[3] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Phạm Minh H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị D, Phạm Thị Duy H, Phạm Đình T và Phạm Minh Đ phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự.

1. Bác kháng cáo của của ông ông Phạm Minh H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị D, Phạm Thị Duy H, Phạm Đình T và Phạm Minh Đ; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ Điều 100, 203 Luật Đất đai 2013; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lí và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Minh H.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị và được thi hành theo Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2021/DS-ST ngày 15/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.

3. Về án phí phúc thẩm: Các ông, bà Phạm Minh H, Nguyễn Thị D, Phạm Thị Duy H, Phạm Đình T và Phạm Minh Đ mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Đã nộp đủ Đã nộp đủ tại các Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0000160, 0000161, 0000162, 0000163, 0000164 ngày 14/12/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 115/2022/DS-PT

Số hiệu:115/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;