Bản án 89/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 89/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 21 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý 198/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2020 về tranh chấp: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 225/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 159/2020/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Bích T, sinh ngày 10/01/1989.

Đa chỉ: ấp K, xã C, huyện D, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: ông Lý Bình D, sinh năm 1987.

Địa chỉ: ấp S, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các lời khai có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Bích T trình bày:

Bà Nguyễn Thị Bích T và ông Lý Bình D chung sống với nhau được cha, mẹ hai bên tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán vào năm 2009 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Cầu Khởi, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh. Số 72, Quyển số 01, ngày 20/7/2009. Quá trình chung sống ông, bà có 01 người con chung tên Lý Nguyễn Phúc T1, sinh ngày 05/8/2009 hiện đang sống với bà T. Do vợ chồng không cùng quan điểm sống nên cuộc sống hôn nhân không thể tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông, bà đã ly thân nhau từ tháng 9/2009 đến nay. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Nay bà T yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng giải quyết:

- Về hôn nhân: Yêu cầu xin ly hôn với ông Lý Bình D, sinh năm 1989.

- Về con chung: Bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung là cháu Lý Nguyễn Phúc T1, sinh ngày 05/8/2009 hiện đang sống với bà T. Bà không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Bà T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bà và bà vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện theo đơn khởi kiện ngày 07/5/2020.

Đi với bị đơn ông Lý Bình D: Trong quá trình giải quyết vụ án ông không có ý kiến gì và cũng không yêu cầu phản tố.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng phát biểu:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và tư cách của người tham gia tố tụng đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề nghị Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà T, ông D theo qui định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Theo các tài liệu thể hiện trong hồ sơ và tại phiên tòa sơ thẩm. Đại diện Viện kiểm sát nhận thấy mối quan hệ vợ chồng giữa bà T và ông D đã mâu thuẫn trầm trọng. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà T, cho bà T được ly hôn với ông D.

Về con chung: Do con chung là cháu Lý Nguyễn Phúc T1, sinh ngày 05/8/2009 hiện nay đang sống cùng với bà T. Ông D không có yêu cầu nuôi con và cháu T1 có nguyện vọng sống với bà T nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà T, giao con chung cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng theo nguyện vọng của cháu T1 và ý kiến của Phòng Lao động Thương binh xã hội huyện Kế Sách.

Về cấp dưỡng nuôi con: do bà T không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung bà T tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Về án phí: đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bích T vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn ông Lý Bình D vắng mặt lần thứ hai không rõ lý do. Xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tống đạt hợp lệ tất cả các văn bản tố tụng của Tòa án cho ông D nhưng ông D không có ý kiến gì, trong đó có Thông báo số 500/TB-TA, ngày 03/8/2020 về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, và công khai chứng cứ, đã hết thời hạn ấn định trong thông báo nhưng ông D không có ý kiến gì nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà T, ông D theo qui định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Bà T và ông D có đăng ký kết hôn vào ngày 20/7/2009, do bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Bà T và ông D đã ly thân từ tháng 9/2009 đến nay. Theo biên bản xác minh của Tòa án ngày 04/6/2020: thì nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp là do vợ chồng không cùng quan điểm nên đã ly thân nhau từ tháng 9/2009 đến nay. Ông D biết việc bà T khởi kiện nhưng ông không đến Tòa án vì ông bận công việc riêng. Ông D không có ý kiến gì về con chung. Xét thấy, mối quan hệ vợ chồng giữa nguyên đơn và bị đơn đã thật sự tan vỡ, không còn khả năng hàn gắn, đoàn tụ. Bỡi lẽ, theo lời trình bày của nguyên đơn và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã đủ cơ sở để xác định cuộc sống vợ chồng giữa nguyên đơn và bị đơn không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên nguyên đơn yêu cầu ly hôn bị đơn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung:

Theo lời khai của nguyên đơn và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, giữa nguyên đơn và bị đơn có 01 (một) người con chung tên Lý Nguyễn Phúc T1, sinh ngày 05/8/2009, từ khi sinh ra đến nay cháu sống với bà T. Nguyên đơn yêu cầu được tiếp tục được nuôi con chung, không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng. Riêng bị đơn không có ý kiến gì về con chung.

Xét thấy, con chung đang được nguyên đơn nuôi dưỡng ổn định từ khi sinh ra đến nay, đồng thời để tránh những xáo trộn trong đời sống, tâm sinh lý, gây ra những ảnh hưởng không tốt đến việc phát triển bình thường của con chung nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu về nuôi con chung của nguyên đơn, giao con chung là cháu Lý Nguyễn Phúc T1, sinh ngày 05/8/2009 hiện đang sống với nguyên đơn cho nguyên đơn tiếp tục nuôi dưỡng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với nguyện vọng của cháu T1. Việc giao con chung cho nguyên đơn tiếp tục nuôi dưỡng cũng phù hợp với ý kiến của Phòng Lao động Thương binh xã hội huyện Kế Sách tại công văn số: 198/P.LĐTBXH ngày 17/8/2020. Do nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung: Do nguyên đơn tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét trong vụ án này.

[5] Về nợ chung: Do nguyên đơn tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét trong vụ án này.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[7] Về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng phù hợp và có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào các Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Nguyễn Thị Bích T ly hôn ông Lý Bình D.

[2] Về con chung: Giao con chung là cháu Lý Nguyễn Phúc T1, sinh ngày 05/8/2009 hiện đang sống với bà Nguyễn Thị Bích T cho bà Nguyễn Thị Bích T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục theo quy định của pháp luật, theo nguyện vọng của cháu T1 và ý kiến của Phòng Lao động Thương binh xã hội huyện Kế Sách. Ông Lý Bình D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Ông Lý Bình D không cấp dưỡng nuôi con chung do bà Nguyễn Thị Bích T không yêu cầu.

[3] Về tài sản chung: Do bà Nguyễn Thị Bích T tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét trong vụ án này.

[4] Về nợ chung: Do bà Nguyễn Thị Bích T tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét trong vụ án này.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Bích T phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng bà Nguyễn Thị Bích T đã nộp 300.000đồng T tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004102 ngày 12/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kế Sách không nộp thêm. Ông Lý Bình D không chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Báo cho nguyên đơn đựơc quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại địa phương, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 89/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:89/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;