Luật Đất đai 2024

Nghị quyết số 02-HĐTP-TANDTC/QĐ về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ Luật Hình sự do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành

Số hiệu 02-HĐTP-TANDTC/QĐ
Cơ quan ban hành Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
Ngày ban hành 05/01/1986
Ngày công báo Đã biết
Lĩnh vực Trách nhiệm hình sự
Loại văn bản Nghị quyết
Người ký Phạm Hưng
Ngày có hiệu lực Đã biết
Số công báo Đã biết
Tình trạng Đã biết

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 02-HĐTP-TANDTC/QĐ

Hà Nội, ngày 05 tháng 01 năm 1986

NGHỊ QUYẾT

CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ

Bắt đầu từ ngày 1-1-1986, Bộ luật hình sự được thi hành trong cả nước. Phần chung của Bộ luật hình sự rất quan trọng vì đó là những chính sách, quan điểm cơ bản về hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, căn cứ vào Điều 24 Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao họp trong ba ngày 3, 4 và 5 tháng 1 năm 1986 với sự tham gia của đồng chí Trần Tê - Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và đồng chí Phùng Văn Tửu - Thứ trưởng Bộ Tư pháp, hướng dẫn Tòa án các cấp quán triệt áp dụng thống nhất một số quy định sau đây trong phần chung của Bộ luật hình sự.

I- HIỆU LỰC CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ THỜI GIAN (ĐIỀU 7 BLHS)

1) Đây là một trong những vấn đề rất quan trọng mà các Tòa án cần nắm vững để áp dụng nghiêm chỉnh Bộ luật hình sự vì khoản 1 của Điều 7 đã quy định nguyên tắc chung trong áp dụng luật hình sự là: “Điều luật áp dụng đối với một hình sự có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-1986 cho nên mọi hành vi phạm tội được thực hiện từ ngày 1-1-1986 trở về sau đều phải xử lý theo những quy định của Bộ luật hình sự.

Những hành vi nào mà Bộ luật hình sự không quy định là tội phạm thì không được đưa ra truy tố, xét xử. Việc trừng trị một số tội phạm trước đây tuy không có luật nào quy định nhưng đã truy tố, xét xử theo đường lối chính sách hoặc áp dụng nguyên tắc tương tự, nay không được áp dụng nữa.

2) Từ nguyên tắc chung về áp dụng pháp luật hình sự đã nói trên, khoản 2 Điều 7 Bộ luật hình sự đã quy định: “Điều luật quy định một tội phạm mới hoặc một hình phạt nặng hơn không áp dụng đối với hành vi phạm tội trước khi điều luật đó được ban hành, trừ trường hợp luật quy định khác”. Vì Bộ luật hình sự được áp dụng đối với tất cả những hành vi phạm tội được thực hiện từ ngày 1-1-1986 trở về sau, cho nên khoản 2 của Điều 7 nói trên được áp dụng đối với “những hành vi phạm tội xảy ra trước ngày 1-1-1986” như sau:

+ Đối với những tội mà Bộ luật hình sự mới quy định thì cần thấy rằng trước đây, vì ta mới chỉ có một số luật và pháp lệnh quy định việc trừng trị một số tội, cho nên ngoài việc áp dụng những luật và pháp lệnh đó, căn cứ vào ý thức pháp chế xã hội chủ nghĩa, các cơ quan Công an, Viện kiểm sát và Tòa án còn truy cứu trách nhiệm hình sự cả đối với một số hành vi phạm tội theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước như: tội tổ chức, cưỡng ép người trốn đi nước ngoài không có mục đích phản cách mạng; tội cưỡng dâm; tội giao cấu với người chưa thành niên dưới 16 tuổi; tội vi phạm chế độ một vợ một chồng; tội dụ dỗ hoặc chức chấp người chưa thành niên phạm pháp; tội bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em v.v… Việc xử lý về hình sự những hành vi nói trên mặc dầu chưa có pháp luật quy định trong một điều cụ thể, nhưng đã được Nhà nước và xã hội thừa nhận, cho nên không coi là tội mới. Những hành vi nói trên, nếu xảy ra trước ngày 1-1-1986 mà nay mới đưa ra truy tố, xét xử, thì áp dụng những điều luật tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự. Vì vậy, chỉ coi là tội mới những hành vi mà trước đây Nhà nước ta chưa coi là tội phạm, chưa đưa ra xét xử bao giờ mà nay Bộ luật hình sự mới quy định là tội phạm. Thí dụ: tội vi phạm các quy định về hàng không (Điều 90); tội vi phạm các quy định về hàng hải (Điều 91); tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế (Điều 176); tội lưu hành sản phẩm kém phẩm chất (Điều 177) v.v… Đối với những hành vi nói trên, nếu xảy ra trước ngày 1-1-1986 thì không được đưa ra truy tố, xét xử.

+ Đối với những tội phạm mà Bộ luật hình sự quy định “một hình phạt nặng hơn” thì không áp dụng quy định mới về hình phạt của Bộ luật hình sự mà vẫn áp dụng luật cũ đối với những tội được thực hiện trước ngày 1-1-1986.

Căn cứ để so sánh một hình phạt mới nặng hơn một hình phạt cũ là lấy mức hình phạt tối đa của khung hình phạt cao nhất của cùng một tội trong Bộ luật hình sự và trong luật cũ. Nếu mức tối đa của hình phạt mới quy định cao hơn mức tối đa của cùng tội trong luật cũ thì đó là hình phạt mới nặng hơn; ngược lại là nhẹ hơn. Thí dụ: Điều 82 Bộ luật hình sự quy định hình phạt cao nhất đối với tội tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa là 20 năm tù, nhưng Điều 15 Pháp lệnh ngày 30-10-1967 quy định hình phạt cao nhất đối với tội này chỉ là 12 năm tù. Do đó, nếu tội này xảy ra trước ngày 1-1-1986 thì vẫn áp dụng Điều 15 Pháp lệnh ngày 30-10-1967.

3) Khoản 3 của Điều 7 còn quy định: “Điều luật xóa bỏ một tội phạm hoặc quy định một hình phạt nhẹ hơn được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó được ban hành”.

Do đó, những hành vi trước đây bị coi là tội phạm, nay Bộ luật hình sự không quy định là tội phạm, là “những tội phạm được Bộ luật hình sự xóa bỏ”. Thí dụ: tội thông gian gây hậu quả nghiêm trọng; tội dâm ô; tội phá thai trái phép v.v… Nếu những hành vi này đã thực hiện trước ngày 1-1-1986 thì không được đưa ra truy tố, xét xử nữa.

Những điều của Bộ luật hình sự quy định tội phạm cũ có “hình phạt nhẹ hơn” hình phạt trong luật cũ thì được áp dụng đối với cả những tội thực hiện trước ngày 1-1-1986. Thí dụ: Pháp lệnh ngày 30-6-1982 quy định hình phạt nặng nhất đối với tội đầu cơ có thể đến tử hình, nhưng Điều 165 Bộ luật hình sự quy định hình phạt cao nhất là chung thân, do đó, Điều 165 được áp dụng đối với tội đầu cơ được thực hiện trước ngày 1-1-1986 mà nay mới đưa ra xét xử.

Nếu một tội có nội dung và hình phạt quy định trong luật mới và luật cũ giống nhau thì định tội và áp dụng hình phạt theo luật mới để xét xử.

Đối với những vụ án sơ thẩm trước ngày 1-1-1986 mà sau ngày này mới xử phúc thẩm phải căn cứ vào khoản 2 hoặc khoản 3 của Điều 7 Bộ luật hình sự và điều luật trong luật cũ hoặc luật mới quy định tội phạm đó để xét xử.

Đối với những bản án đã có hiệu lực pháp lâụt trước ngày 1-1-1986, nói chung, không kháng nghị và xét xử lại theo trình tự giám đốc thẩm để sửa lại nặng hơn hoặc nhẹ hơn theo Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, nếu đối chiếu với luật cũ mà thấy bản án đã có hiệu lực pháp luật có sai lầm nghiêm trọng thì vẫn phải giám đốc thẩm và khi giám đốc thẩm thì xử theo tinh thần của Bộ luật hình sự về những trường hợp có thể xử nhẹ hơn.

Căn cứ vào điều 7 Bộ luật hình sự, Tòa án nhân dân tối cao đã liệt kê những trường hợp còn được áp dụng luật cũ hoặc áp dụng ngay Bộ luật hình sự đối với những hành vi xảy ra trước ngày 1-1-1986. Bản phụ lục của nghị quyết này cần được áp dụng trong công tác xét xử của Tòa án nhân dân các cấp.

II- PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG (ĐIỀU 12 BLHS)

Điều 13 của Bộ luật hình sự đã quy định:

1) Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách tương xứng người có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

2) Nếu hành vi chống trả rõ ràng là quá đáng, tức là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì người có hành vi đó phải chịu trách nhiệm hình sự.

Việc xem xét những trường hợp phòng vệ chính đáng thường khó khăn, cho nên, Tòa án nhân dân tối cao đã tổng kết thực tiễn xét xử và có Chỉ thị số 07 ngày 22-12-1983 về việc xét xử các hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ. Nội dung Chỉ thị nói trên phù hợp với Điều 13 của Bộ luật hình sự. Hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác được coi là phòng vệ chính đáng khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Hành vi xâm hại những lợi ích cần phải bảo vệ là hành vi phạm tội hoặc rõ ràng là có tính chất nguy hiểm cho xã hội.

b) Hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ.

c) Phòng vệ chính đáng không chỉ gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi sự tấn công, mà còn có thể tích cực chống lại sự xâm hại, gây thiệt hại cho chính người xâm hại.

d) Hành vi phòng vệ phải tương xứng với hành vi xâm hại, tức là không có sự chênh lệch quá đáng giữa hành vi phòng vệ với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại.

Tương xứng không có nghĩa là thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người xâm hại phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại do người xâm hại đe dọa gây ra hoặc đã gây ra cho người phòng vệ.

Để xem xét hành vi chống trả có tương xứng hay không, có rõ ràng là quá đáng hay không, thì phải xem xét toàn diện những tình tiết có liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ như: khách thể cần bảo vệ (thí dụ: bảo vệ địa điểm thuộc bí mật quốc gia, bảo vệ tính mạng); mức độ thiệt hại do hành vi xâm hại có thể gây ra hoặc đã gây ra và do hành vi phòng vệ gây ra; vũ khí, phương tiện, phương pháp mà hai bên đã sử dụng; nhân thân của người xâm hại (nam, nữ; tuổi; người xâm hại là côn đồ, lưu manh…); cường độ của sự tấn công và của sự phòng vệ; hoàn cảnh và nơi xảy ra sự việc (nơi vắng người, nơi đông người, đêm khuya) v.v… Đồng thời cũng cần phải chú ý đến yếu tố tâm lý của người phải phòng vệ có khi không thể có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn được chính xác phương pháp, phương tiện chống trả thích hợp, nhất là trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ.

Sau khi đã xem xét một cách đầy đủ, khách quan tất cả các mặt nói trên mà nhận thấy rõ ràng là trong hoàn cảnh sự việc xảy ra, người phòng vệ đã sử dụng những phương tiện, phương pháp rõ ràng quá đáng và gây thiệt hại rõ ràng quá mức (như: gây thương tích nặng, làm chết người) đối với người có hành vi xâm hại thì coi hành vi chống trả là không tương xứng và là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Ngược lại, nếu hành vi chống trả là tương xứng thì đó là phòng vệ chính đáng.

III- CHUẨN BỊ PHẠM TỘI VÀ PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT (ĐIỀU 15 BLHS)

Xác định hai giai đoạn này của tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quy trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt.

Chỉ đối với những tội phạm thực hiện do cố ý thì mới có giai đoạn chuẩn bị phạm tội, vì khi cố ý phạm tội thì người phạm tội mới thường tiến hành một số hoạt động như: bàn bạc với người khác, tìm kiếm, sửa soạn phương tiện phạm tội hoặc tạo những điều kiện cần thiết khác cho việc thực hiện tội phạm. Khoản 1 Điều 15 Bộ luật hình sự quy định: Chỉ chuẩn bị phạm một tội nghiêm trọng thì người chuẩn bị phạm tội mới phải chịu trách nhiệm hình sự, tức là chỉ đối với những tội phạm gây nguy hiểm lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 5 năm tù, thì người chuẩn bị phạm tội mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

Khi hành vi của người phạm tội đã chuyển sang giai đoạn thực hiện thì hành vi đó đã thực sự nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, khoản 2 điều 14 Bộ luật hình sự quy định trừng trị cả trường hợp phạm tội chưa đạt, không phân biệt tội nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng. Phạm tội chưa đạt là những hành vi đã tiến hành tội phạm, nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.

Trong thực tế đấu tranh chống tội phạm, phạm tội chưa đạt có hai dạng: phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành vì không có điều kiện thực hiện đầy đủ hành vi phạm tội, thí dụ: A đã trèo tường vào nhà B để trộm tài sản, nhưng thấy động nên phải rút lui; và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành vì đã thực hiện đến cùng tội phạm nhưng không đạt được mục đích, thí dụ: kẻ giết người đã bắn vào người bị hại, nhưng bắn không trúng, hoặc y đã cho người khác uống thuốc độc, nhưng do liều lượng quá nhẹ nên người bị hại không chết.

Thông thường thì trường hợp thứ hai nguy hiểm hơn trường hợp thứ nhất, cho nên phải xử phạt nặng hơn.

Bản án xử những trường hợp phạm tội chưa đạt phải định tội danh là phạm tội chưa đạt về tội gì (thí dụ: giết người chưa đạt) và phải viện dẫn điều luật quy định về tội đó (như: Điều 101 về tội giết người…) và khoản 2 Điều 15 về phạm tội chưa đạt.

IV- TỰ Ý NỬA CHỪNG CHẤM DỨT VIỆC PHẠM TỘI (ĐIỀU 15 Bộ luật hình sự)

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm. Thí dụ: B đã chuẩn bị dao găm, bao tải để giết người và cướp của ở nhà ông A, B đến nhà ông A nhưng B nghỉ lại và thấy rằng ông A đã là người tốt đối với mình nên B quay về, không giết người, cướp của ở nhà ông A nữa.

Điều kiện cơ bản để được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là người phạm tội tự mình không thực hiện tội phạm nữa mặc dù không có gì ngăn cản. Do đó, nếu do điều kiện khách quan mà người phạm tội không thực hiện tội phạm nữa thì không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Thí dụ: trong trường hợp trên, nếu B quay về vì không cậy được cửa, vì có tiếng động trong nhà làm cho y sợ hãi, hoặc vì nhà ông A vẫn còn thức v.v… thì việc B quay về không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và B vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 15 Bộ luật hình sự về phạm tội chưa đạt.

Trong thực tế, việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có thể do nhiều nguyên nhân như: hối hận, lo sợ, sợ bị trừng trị, không muốn thực hiện tội phạm đối với người quen biết v.v… Dó đó, chúng ta không nên đòi hỏi người có hành vi nguy hiểm phải tỉnh ngộ, hối hận mà chỉ cần họ đã thực hiện sự tự nguyện và dứt khoát không thực hiện tội phạm nữa thì được coi là đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.

Trong trường hợp người phạm tội là người tổ chức tội phạm thì mặc dầu họ đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nhưng vẫn để mặc cho đồng bọn thực hiện tội phạm, thì người đó không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Thí dụ: người đã đề xuất ra việc trộm cắp, đã vạch ra kế họach đi ăn trộm, đã vẽ sơ đồ cho đồng bọn, mặc dầu người đó đã tự ý không tham gia trộm nữa mà cứ để mặc đồng bọn thực hiện trộm cắp. Trong trường hợp này, người tự ý không tham gia trộm nữa không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.

Trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, nhưng hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành một tội phạm khác thì người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi đã thực hiện. Thí dụ: một người đã mua lựu đạn để giết người, mặc dù họ tự ý chấm dứt việc giết người, vẫn phải chịu trách nhiệm về hành vi mua bán trái phép vũ khí quân dụng (Điều 95 Bộ luật hình sự). Trường hợp định tham ô nhưng mới giả mạo được giấy tờ mà tự ý chấm dứt việc phạm tội tham ô, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giả mạo trong công tác (Điều 224 Bộ luật hình sự)… Cần lưu ý là đối với truờng hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành thì không có tự ý chấm dứt nửa chừng việc phạm tội. Thí dụ: A định giết B, A đã chĩa súng vào B và bóp cò súng, nhưng đạn không nổ, sau đó, y tự ý thôi không thực hiện hành vi nào để giết B nữa. Trong trường hợp này thì A vẫn phạm tội giết người chưa đạt chứ không được coi là tự ý chấm dứt nửa chừng việc phạm tội.

V- CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ (ĐIỀU 24 BLHS) VÀ CẢI TẠO Ở ĐƠN VỊ KỶ LUẬT CỦA QUÂN ĐỘI (ĐIỀU 70 BLHS) (*)

1) Cải tạo không giam giữ là hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng (Điều 24 Bộ luật hình sự).

Bộ luật hình sự đã quy định rõ những tội phạm nào được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Đồng thời theo khoản 3 Điều 38 của Bộ luật hình sự thì cũng có thể áp dụng hình phạt này đối với những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định phạt giam nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên được chuyển sang loại hình phạt nhẹ hơn. Hình phạt cải tạo không giam giữ không áp dụng đối với những tội phạm nghiêm trọng, kể cả trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

2) Hình phạt cải tạo không giam giữ nhẹ hơn hình phạt tù giam, do đó, chỉ áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trong những trường hợp sau đây:

- Có nhiều tình tiết giảm nhẹ hình phạt.

- Bị cáo không phải là người tái phạm về tội cố ý. Nếu bị cáo là người tái phạm về tội cố ý thì không áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.

- Bị cáo phải là người có căn cước, lý lịch rõ ràng, có nơi thường trú (vì trong hình phạt cải tạo không giam giữ, Điều 24 Bộ luật hình sự quy định là: “Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc thường trú để giám sát, giáo dục”). Do đó, nếu bị cáo không có căn cước, lý lịch rõ ràng, không có nơi thường trú thì không áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.

3) Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính, cho nên Tòa án còn có thể quyết định thêm hình phạt bổ sung mà luật có quy định đối với tội đó. Thí dụ: đối với tội sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa quy định trong khoản 1 Điều 137 thì Tòa án có thể quyết định thêm hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm một số chức vụ quản lý tài sản xã hội chủ nghĩa trong thời hạn từ 2 năm đến 5 năm.

4) Khi phạt cải tạo không giam giữ, thì trong bản án, Tòa án phải quyết định là giao người bị án cho cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội nào giám sát, giáo dục và mức độ khấu trừ phần thu nhập của họ để sung quỹ Nhà nước (từ 5% đến 20%). Tuy nhiên, việc khấu trừ thu nhập không phải là việc bắt buộc nên phải xem xét điều kiện về kinh tế của bị cáo để xem có nên khấu trừ thu nhập của họ không. Trong trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ là người chưa thành niên thì Tòa án không được khấu trừ phần thu nhập của họ.

5) Nếu người bị kết án đã bị tạm giam thì thời hạn tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giam bằng ba ngày cải tạo không giam giữ.

6) Hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội (Điều 24 và Điều 70 Bộ luật hình sự) thực chất cũng là hình phạt cải tạo không giam giữ nhưng được áp dụng đối với quân nhân phạm tội.

Đối với người phạm tội là quân nhân tại ngũ, trong trường hợp điều luật quy định hình phạt cải tạo không giam giữ, thì áp dụng hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội quy định ở Điều 70 Bộ luật hình sự. Người bị kết án cũng phải thực hiện một số nghĩa vụ về cải tạo không giam giữ và có thể bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước. Đối với người thường dân phạm tội gây thiệt hại cho quân đội, bị Tòa án quân sự xét xử thì áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ quy định ở điều 24.

VI- TỔNG HỢP HÌNH PHẠT (các Điều 41, 42, và 43 BLHS)

Cần chú ý Bộ luật hình sự đã quy định cách tổng hợp hình phạt khác nhau khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 41) và tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 42).

A- Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 41).

1. Khi xét xử cùng một lần người phạm nhiều tội, cần chú ý là Tòa án phải quyết định hình phạt đối với từng tội, sau đó quyết định hình phạt chung cho các tội.

Khi định tội danh và quyết định hình phạt, phải ghi rõ tên tội, điều luật, khoản nào, điểm nào của điều luật đã được áp dụng vì điều này sẽ có ảnh hưởng quan trọng về sau đối với việc xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, thời hiệu thi hành án, thủ tục xóa án v.v…

2. Việc quyết định hình phạt chung trong trường hợp phạm nhiều tội (*)có thể thực hiện bằng hai cách: thu hút hình phạt nhẹ vào hình phạt nặng nhất; hoặc cộng toàn bộ hình phạt đã tuyên về từng tội, hay là cộng vào hình phạt nặng nhất một phần các hình phạt đã tuyên. Hai cách đó đều có thể thực hiện nhưng cần chú ý là Bộ luật hình sự đã quy định rõ mức cao nhất của hình phạt chung không được vượt quá mức cao nhất của “khung hình phạt” mà luật quy định đối với tội nặng nhất đã phạm và trong phạm vi loại hình phạt đã tuyên. Thí dụ: Bị cáo phạm 3 tội: cướp tài sản xã hội chủ nghĩa, bị phạt 10 năm tù theo khoản 1 Điều 129; trộm tài sản riêng của công dân bị phạt 6 năm tù theo khoản 2 Điều 155; và hiếp dâm, bị phạt 3 năm tù theo khoản 1 Điều 112. Nếu cộng toàn bộ hình phạt thì bị cáo bị phạt 19 năm tù. Tuy nhiên, trong trường hợp này, hình phạt cao nhất theo khoản 1 Điều 129 về tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa là tội nặng nhất là 15 năm tù, nên Tòa án chỉ có thể quyết định phạt hình chung cao nhất là 15 năm tù.

B- Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 42 BLHS)

1. Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại xét xử về một tội đã phạm trước khi có bản án này (*)(như tội phạm sau lại được xử trước, còn tội phạm trước lại được xử sau) thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung, và hình phạt chung không được vượt mức cao nhất của khung hình phạt mà luật quy định đối với tội nặng nhất đã phạm và trong phạm vi loại hình phạt đã tuyên như đã nói trong điểm 2 nói trên.

Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt chung.

2. Trong trường hợp một người đang chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó “cộng” với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung. Hình phạt chung không được vượt quá mức cao nhất mà luật quy định cho “loại hình phạt” đã tuyên chứ không bị hạn chế ở mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội nặng nhất. Thí dụ: một kẻ phạm tội đã bị phạt 10 năm tù về tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa, theo khoản 1 Điều 129 nhưng mới chấp hành hình phạt được 3 năm thì y phạm tội mới, do đó, hình phạt chưa chấp hành còn lại là 7 năm tù. Y phạm 2 tội mới là: tội trộm tài sản của công dân, bị phạt theo khoản 2 Điều 155 là 7 năm tù và tội hiếp dâm, bị phạt theo khoản 2 Điều 112 là 6 năm tù. Như vậy là trong trường hợp này, hình phạt chung cao nhất đối với bị cáo không bị hạn chế ở mức cao nhất của khung hình phạt luật định đối với tội nặng nhất (ở đây là khoản 1 Điều 129 về tội cướp, mức hình phạt cao nhất là 15 năm tù) mà có thể là 7 + 7 + 6 = 20 năm tù (vì đây là mức cao nhất của loại hình phạt tù giam có thời hạn).

Khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội hoặc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, chỉ được tổng hợp hình phạt trong phạm vi loại hình phạt đã tuyên. Thí dụ: không được tổng hợp nhiều hình phạt tù có thời hạn thành tù chung thân.

+ Trong trường hợp hình phạt khác loại thì tổng hợp theo Điều 43 Bộ luật hình sự, cụ thể là:

a) Đối với hình phạt chính, nếu hình phạt cao nhất đã tuyên là tử hỉnh, tù chung thân hoặc tù 20 năm thì lấy hình phạt cao nhất là hình phạt chung.

Nếu các hình phạt đã tuyên gồm: cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỹ luật của quân đội và tù có thời hạn thì chuyển hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội thành hình phạt tù để quyết định hình phạt chung. Cứ một ngày cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội thành một ngày tù.

Chú ý: khi tổng hợp hình phạt (án tù cũng như cải tạo không giam giữ) phải trừ thời gian người có án đã thực sự chấp hành, chỉ tính thời gian còn lại.

b) Đối với hình phạt bổ sung, Tòa án quyết định một hình phạt chung trong giới hạn luật quy định về mỗi loại hình phạt ấy. Thí dụ: đối với cả hai tội đều có hình phạt là quản chế thì Tòa án không phải quyết định hình phạt quản chế riêng cho mỗi tội mà tuyên một thời hạn quản chế chung cho cả hai tội, tức là 1 đến 5 năm quản chế.

c) Phạt tiền thì cộng các khoản phạt tiền của các tội hoặc của các bản án.

3. Đối với người chưa thành niên phạm tội, có tội phạm trước khi đủ 18 tuổi, có tội phạm sau khi đủ 18 tuổi thì tổng hợp hình phạt theo quy định của điều 64 và điều 65 Bộ luật hình sự.

4. Án treo là án phạt tù nhưng được miễn chấp hành hình phạt tù nếu người bị kết án không phạm tội mới trong thời gian thử thách. Vì vậy, nếu họ phạm tội mới trong thời gian thử thách mà đáng phải phạt tù thì không được hưởng án treo một lần nữa.

Tuy nhiên, có thể tổng hợp hai bản án treo nếu tội xảy ra sau lại được xử trước và được hưởng án treo, rồi sau đó mới phát hiện ra tội phạm trước và tội này cũng được hưởng án treo. Trong trường hợp này, sau khi quyết định hình phạt tù cho hưởng án treo và thời gian thử thách cho tội xử sau, Tòa án quyết định chung hình phạt tù cho hưởng án treo và thời gian thử thách cho cả hai bản án. Tổng số thời gian thử thách không được quá 5 năm.

5. Chỉ tổng hợp hình phạt của bản án đang xử với hình phạt của bản án khác đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, các cấp sơ thẩm, phúc thẩm cần chú ý những trường hợp sau đây:

- Nếu bị cáo bị đưa ra xét xử trong hai vụ án khác nhau thì cấp sơ thẩm cần đợi hết hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với vụ án trước rồi mới xử vụ án sau. Nếu bản án trước không bị kháng cáo, kháng nghị thì khi xử vụ án sau, Tòa án sơ thẩm quyết định hình phạt chung của 2 bản án.

- Nếu bản án trước đã bị kháng cáo, kháng nghị thì khi xử vụ án sau cấp sơ thẩm chỉ quyết định hình phạt đối với tội được xử sau mà không quyết định hình phạt chung của 2 bản án. Việc quyết định hình phạt chung của 2 bản án sẽ do cấp phúc thẩm giải quyết bằng cách tổng hợp hình phạt của bản án trước với hình phạt của bản án sau (bị kháng cáo, kháng nghị hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị).

- Nếu bản án truớc đã được phúc thẩm rồi mà cấp sơ thẩm mới xử vụ án sau thì cấp sơ thẩm quyết định ngay hình phạt chung của 2 bản án.

6. Nếu Tòa án cấp huyện xét xử mà hình phạt chung cao hơn mức hình phạt do Tòa án đó có quyền quyết định thì Tòa án cấp huyện không được xét xử và vụ án phải do Tòa án cấp tỉnh xét xử (*)

VII- ÁN TREO (ĐIỀU 44 BLHS) (**)

1- Theo Điều 44 Bộ luật hình sự thì án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Tức là căn cứ vào nhân thân của người bị kết án và những tình tiết giảm nhẹ, Tòa án sẽ miễn cho người bị kết án không phải chấp hành hình phạt tù nếu trong thời gian thử thách người đó không phạm tội mới. Vì vậy, khi quyết định hình phạt, Tòa án phải quyết định thời gian phạt tù đúng với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo rồi mới cho hưởng án treo chứ không được nâng cao thời hạn tù án treo vì cho đó là hình phạt nhẹ, và phải tuyên rành rọt là bị cáo bị phạt mấy năm tù nhưng cho hưởng án treo, chứ không được tuyên là mấy năm tù án treo.

Án treo chỉ là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện cho nên không phải là một hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù. Vì vậy, sự giải thích trước đây của Tòa án nhân dân tối cao coi án treo là hình phạt nhẹ hơn (trong bản hướng dẫn về thủ tục xét xử về hình sự kèm theo Thông tư số 19/TATC ngày 02-10-1974 và trong Lời tổng kết hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án nhân dân năm 1976) không còn phù hợp với Bộ luật hình sự.

2- Trong công tác xét xử, các Tòa án cũng cần phải phân biệt những trường hợp phạt cải tạo không giam giữ với những trường hợp phạt tù mà cho hưởng án treo, vì phạt tù mà cho hưởng án treo được áp dụng đối với những trường hợp phạm tội “nặng hơn” những trường hợp được xử phạt bằng cải tạo không giam giữ. Hậu quả pháp lý của hai loại hình phạt cũng khác nhau: người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách và bị phạt tù thì phải chấp hành hình phạt của tội mới tổng hợp với hình phạt của tội cũ. Trái lại, người bị phạt cải tạo không giam giữ đã chấp hành xong hình phạt mà phạm tội mới thì chỉ phải chịu hình phạt về tội mới. Cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với những tội ít nghiêm trọng, nhưng án treo được áp dụng cả đối với trường hợp phạm tội nghiêm trọng mà hình phạt không quá 5 năm tù.

3- Những điều kiện được hưởng án treo đã được Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn trong Thông tư số 2308/NCPL ngày 1-12-1961 (tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập 1, trang 119) nhưng trong điểm a mục c của phần II có nói là người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt cũ nếu trong thời gian thử thách mà họ phạm tội mới “cùng tính chất với tội cũ, thì nay không phù hợp với Bộ luật hình sự vì Điều 44 chỉ quy định đơn giản là: nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội mới và bị xử phạt tù thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án mới. Như vậy là tội phạm cũ và tội phạm mới không nhất thiết phải cùng tính chất.

4- Thời gian thử thách là từ 1 đến 5 năm, tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, hoặc bản án phúc thẩm cho hưởng án treo). Thời gian thử thách không được ít hơn mức án tù đã tuyên, mà ít nhất phải bằng hoặc nhiều hơn (thông thường phải dài hơn) mức án tù đã tuyên. Tuy nhiên, nếu người bị kết án đã bị tạm giam lâu trước khi bản án có hiệu lực pháp luật thì khi quyết định thời gian thử thách, Tòa án cần chú ý giảm cho họ thời gian thử thách. Thí dụ: người phạm tội đã bị tạm giam hai năm và sau đó, bị phạt 3 năm tù nhưng được hưởng án treo thì thời gian thử thách có thể chỉ là một năm. Trong trường hợp đặc biệt có thể miễn cho họ thời gian thử thách nếu Tòa án chỉ phạt tù dưới mức thời gian mà họ đã bị tạm giam (*)

5- Về nguyên tắc, cấp phúc thẩm không được làm xấu tình trạng của bị cáo nếu không có kháng cáo hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc của người bị hại yêu cầu tăng nặng hình phạt. Vì vậy, trong trường hợp bị cáo được cấp sơ thẩm cho hưởng án treo thì cần xác định những trường hợp làm xấu tình trạng của bị cáo và những trường hợp xử phạt có lợi cho họ như sau:

- Làm xấu tình trạng của bị cáo là: tăng hình phạt tù đã cho hưởng án treo; tăng thời gian thử thách; chuyển án treo thành án tù, dù là thời hạn tù được giảm nhiều so với thời hạn tù đựơc hưởng án treo; chuyển án tù giam thành án treo nhưng với thời hạn tù cho hưởng án treo dài hơn thời hạn tù giam (thí dụ: đổi 3 năm tù giam thành 5 năm tù cho hưởng án treo).

- Xử phạt có lợi cho bị cáo là: giảm hình phạt tù cho hưởng án treo; giảm thời gian thử thách.

VIII- MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ (Khoản 2 Điều 48 BLHS)

1- Theo Điều 48 Bộ luật hình sự thì người được miễn trách nhiệm hình sự là người đã phạm một tội quy định trong Bộ luật hình sự nhưng được miễn trách nhiệm hình sự. Miễn trách nhiệm hình sự khác với trường hợp không có trách nhiệm hình sự, tức là những trường hợp hành vi của bị cáo không có sai trái hoặc chỉ đáng xử lý về hành chính (thí dụ: xử lý về vi cảnh, xử lý về hành chính đối với việc đầu cơ mà giá trị hàng hóa phạm pháp từ 2.000 đồng tiền mới trở xuống v.v…). Theo Thông tư số 12-LĐ/TT ngày 28-5-1977 thì người được miễn trách nhiệm hình sự, nếu đã bị giam có thể không được trả lại đủ 100% tiền lương mà vẫn chỉ được hưởng 50% tiền lương và phụ cấp trong thời gian bị tạm giam. Trái lại, nếu họ được xác định là không có trách nhiệm hình sự thì được truy lĩnh 100% tiền lương và phụ cấp.

Vì miễn trách nhiệm hình với không có trách nhiệm hình sự khác nhau như vậy cho nên mỗi trường hợp cần phải được xác định thận trọng, chính xác. Nếu không có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo bị truy tố cấu thành một tội phạm cụ thể thì phải tuyên bố bị cáo không phạm tội, không được tuyên miễn trách nhiệm hình sự một các tùy tiện.

2- Theo Điều 48 Bộ luật hình sự thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự trong những truờng hợp sau đây:

- Do sự chuyển biến của tình hình (chính trị, kinh tế, xã hội) nên tội phạm không còn nguy hiểm đáng kể cho xã hội nữa.

- Truớc khi tội phạm bị phát giác, người phạm tội đã tự thú (*), khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm.

Người được miễn trách nhiệm hình sự thì đương nhiên không bị coi là người can án.

3- Trong giai đoạn điều tra, truy tố thì Viện kiểm sát nhân dân có quyền miễn trách nhiệm hình sự. Trong giai đoạn xét xử thì việc miễn trách nhiệm hình sự do Tòa án quyết định.

Khi miễn trách nhiệm hình sự thì trong phần nhận định của bản án phải nói rõ là bị cáo đã phạm tội gì nhưng được miễn trách nhiệm hình sự và phải nói rõ lý do. Trong phần quyết định của bản án thì chỉ cần nói là miễn trách nhiệm hình sự. Khi đã miễn trách nhiệm hình sự thì Tòa án không được quyết định bất cứ loại hình phạt nào, nhưng vẫn có thể quyết định việc bồi thường cho người bị hại và giải quyết các tang vật.

IX- MỘT SỐ QUY ĐỊNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

Bộ luật hình sự dành một chương riêng quy định về chính sách và đường lối xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội vì lứa tuổi này còn bồng bột, chưa đủ khả năng để cân nhắc hành vi của mình, còn thiếu kinh nghiệm xã hội và dễ bị ảnh hưởng bởi tác động môi trường xấu bên ngòai.

A- Tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 58 BLHS)

Theo quy định của Bộ luật hình sự thì người chưa thành niên đủ 14 tuổi trở lên phạm tội thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Người chưa đủ 14 tuổi mà có hành vi nguy hiểm cho xã hội thì không có trách nhiệm hình sự, do đó, không được truy tố, xét xử họ về hành vi đó.

Đối với người chưa thành niên đủ 14 tuổi trở lên thì luật cũng có sự phân biệt:

- Người đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội nghiêm trọng do cố ý. Do đó, hành vi nguy hiểm do vô ý thì người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự.

- Người đủ 16 tuổi trở lên phạm tội thì phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm.

Cách tính tuổi do luật quy định là “đủ 14 tuổi”, hoặc “đủ 16 tuổi”, tức là tính theo tuổi tròn. Thí dụ: sinh ngày 1-1-1975 thì 1-1-1989 mới đủ 14 tuổi. Trong trường hợp không có điều kiện xác định được chính xác ngày sinh thì tính ngày sinh theo ngày cuối cùng của tháng sinh và nếu cũng không có điều kiện xác định chính xác tháng sinh thì xác định ngày sinh là 31-12-năm sinh.

B- Xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội

1. Điều 59 của Bộ luật hình sự quy định: Đối với người chưa thành niên phạm tội, Viện kiểm sát và Tòa án áp dụng chủ yếu những biện pháp giáo dục, phòng ngừa. Theo Điều 60 thì những biện pháp tư pháp không có tính chất hình phạt, gồm có:

- Buộc phải chịu thử thách từ 1 năm đến 2 năm, áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, được giao cho chính quyền cơ sở và tổ chức xã hội giám sát giáo dục.

- Đưa vào trường giáo dưỡng từ 1 năm đến 3 năm, áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng, cần đưa vào tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.

2. Chỉ xử phạt về hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội “trong những trường hợp cần thiết, căn cứ vào tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa” (Điều 59). Thí dụ: cướp của, giết người, hoặc đã đưa vào trường giáo dưỡng mà trốn ra, tiếp tục phạm pháp nhiều lần…

Không phạt chung thân hoặc tử hình người chưa thành niên phạm tội. Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn nhưng được xử nhẹ hơn người đã thành niên. Mức xử nhẹ là bao nhiêu phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, nhân thân của người phạm tội và căn cứ vào Điều 64 Bộ luật hình sự để vận dụng mức phạt tù có thời hạn. Nếu điều kiện quy định hình phạt cao nhất là chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi trở lên khi phạm tội là 20 năm tù, và đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi khi phạm tội là 15 năm tù. Nếu điều luật quy định hình phạt cao nhất là 20 năm tù thì mức hình phạt cao nhất đối với người chưa thành niên phạm tội là không quá 12 năm tù.

Qua thực tế xét xử, nếu không có những tình tiết tăng nặng đáng chú ý thì thông thường mức hình phạt có thể là một nửa (1/2) mức hình phạt đối với người thành niên phạm tội như nhau. Không phạt tiền và các hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.

3. Việc bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra vẫn được thực hiện theo những hướng dẫn trước đây của Tòa án nhân dân tối cao về vấn đề này.

(*)Xem bản “quy chế về chế độ cải tạo không giam giữ và cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội” ban hành kèm theo Nghị quyết số 95/HĐBT ngày 25-7-1989 của Hội đồng Bộ trưởng.

(*)Xem: Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16-11-1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986.

(*)Xem Thông tư liên ngành số 01/TTLN 90 ngày 1-2-1990 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS.

(*)Điểm này nay áp dụng theo Thông tư liên ngành số 02/TTLN 90 ngày 15-2-1990 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ.

(**)Phần nay đã được thay thế bằng phần II Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16-11-1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986

- Xem phần III Nghị quyết số 1-89/HĐTP ngày 19-4-1989 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự.

(*)Hội đồng Nhà nước đã có giải thích trong mọi trường hợp cho hưởng án treo phải ấn định thời gian thử thách.

(*)Xem Thông tư liên ngành số 05/TTLN ngày 2-6-1990 của TANDTC VKSNDTC - BNV - BTP hướng dẫn thi hành chính sách đối với người phạm tội ra tự thú.

Phạm Hưng

(Đã ký)

62
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tải về Nghị quyết số 02-HĐTP-TANDTC/QĐ về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ Luật Hình sự do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
Tải văn bản gốc Nghị quyết số 02-HĐTP-TANDTC/QĐ về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ Luật Hình sự do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
Chưa có văn bản song ngữ
Văn bản được hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản được hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản bị sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản bị đính chính - [0]
[...]
Văn bản bị thay thế - [0]
[...]
Văn bản được dẫn chiếu - [0]
[...]
Văn bản được căn cứ - [0]
[...]
Văn bản liên quan ngôn ngữ - [1]
[...]
Văn bản đang xem
Nghị quyết số 02-HĐTP-TANDTC/QĐ về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ Luật Hình sự do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
Số hiệu: 02-HĐTP-TANDTC/QĐ
Loại văn bản: Nghị quyết
Lĩnh vực, ngành: Trách nhiệm hình sự
Nơi ban hành: Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
Người ký: Phạm Hưng
Ngày ban hành: 05/01/1986
Ngày hiệu lực: Đã biết
Ngày đăng: Đã biết
Số công báo: Đã biết
Tình trạng: Đã biết
Văn bản liên quan cùng nội dung - [0]
[...]
Văn bản hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản đính chính - [0]
[...]
Văn bản thay thế - [0]
[...]
[...] Đăng nhập tài khoản TVPL Basic hoặc TVPL Pro để xem toàn bộ lược đồ văn bản
Mục này được sửa đổi bởi Thông tư 01-TAND/TT-1988 có hiệu lực từ ngày 21/04/1988
Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/HĐTP ngày 5/1/1986 (mục VII) đã hướng dẫn vận dụng Điều 44 Bộ luật hình sự về án treo. Nói chung, vấn đề án treo nói trong Nghị quyết số 02 là đúng đắn.

Riêng về thời gian thử thách của án treo, Nghị quyết số 02/HĐTP hướng dẫn: trong trường hợp đặc biệt, người bị án đã bị tạm giam lâu thì Tòa án “có thể miễn” cho họ thời gian thử thách nếu hình phạt tù dưới mức thời gian họ đã bị tạm giam. Tại công văn số 108/HĐNN ngày 19/6/1987, Hội đồng Nhà nước đã giải thích là trong bất cứ trường hợp nào cũng không được miễn thời gian thử thách án treo.

Vì vậy, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn lại về thời gian thử thách của án treo như sau:

1. Thời gian thử thách án treo.

Theo Điều 44 Bộ luật hình sự, thời gian thử thách án treo là từ 1 đến 5 năm và thời gian thử thách là bắt buộc, dù người được hưởng án treo đã bị tạm giam lâu. Thời gian tạm giam này được trừ vào thời gian thi hành án phạt tù, nếu người được hưởng án treo lại phạm tội mới và bị phạt tù. Thông thường thì thời gian thử thách phải bằng hoặc dài hơn mức án đã tuyên nhưng trong bất cứ trường hợp nào cũng không được dưới một năm hoặc quá 5 năm. Vừa qua có trường hợp do mức án thấp (3 tháng tù cho hưởng án treo), Tòa án đã tuyên thời gian thử thách dưới một năm là trái pháp luật.

2. Cách tính thời gian thử thách của án treo (*).

Nói chung, thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án treo đầu tiên, cụ thể như sau:

Nếu xử sơ thẩm thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án và phải ghi rõ ngày, tháng, năm. Nếu bị cáo đang bị tạm giam, thì phải tuyên tha ngay bị cáo. Nếu án sơ thẩm bị kháng cáo hay kháng nghị (kể cả trường hợp án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm) mà khi xử phúc thẩm hoặc giám đốc phẩm vẫn y án treo của án sơ thẩm, thì thời gian thử thách cũng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nếu án sơ thẩm phạt tù giam, án phúc thẩm hoặc án giám đốc thẩm cải án sơ thẩm cho bị cáo hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm.

3. Vấn đề tổng hợp hình phạt khi người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách và bị phạt tù.

Hiện nay, việc tổng hợp hình phạt theo Điều 41 và 42 Bộ luật hình sự, các cấp Tòa án hiểu và vận dụng không thống nhất và nhiều khi tổng hợp không hợp lý. Tòa án nhân dân tối cao sẽ có Thông tư hướng dẫn chung sau. Riêng về tổng hợp hình phạt trong trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách án treo thì áp dụng như sau:

- Khoản 5 Điều 44 Bộ luật hình sự (**)quy định: “Nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội mới và bị phạt tù, thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định ở khoản 2 Điều 42”. Quy định của khoản 2 là “khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó cộng với hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung. Hình phạt chung không được vượt mức cao nhất mà luật quy định cho loại hình phạt đã tuyên”. Vì vậy, những trường hợp Tòa án đã tổng hợp hình phạt của hai bản án (án treo phải chấp hành hình phạt tù và án tù mới) nhưng chỉ bắt thi hành mức án của bản án mới trong khi hình phạt chung không vượt mức cao nhất mà luật quy định cho loại hình phạt đã tuyên, là trái pháp luật và làm cho án treo mất hết ý nghĩa của nó. Vì vậy, phải cộng toàn bộ mức hình phạt của hai bản án và quyết định hình phạt chung theo tinh thần của khoản 5 Điều 44 và khoản 2 Điều 42 Bộ luật hình sự. Nếu bị cáo đã tạm giam, thì thời gian tạm giam của tội cũ cũng như thời gian tạm giam của tội mới được trừ vào thời gian phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

Nếu thời gian thử thách đã hết lại phát hiện được tội phạm xảy ra trong thời gian thử thách mà tội này bị phạt tù giam thì vẫn coi là phạm tội trong thời gian thử thách và tổng hợp hình phạt như đã nói tren. Nếu người bị án đã được Tòa án cấp giấy chứng nhận đương nhiên xóa án đối với tội cũ được hưởng án treo, thì quyết định này không còn hiệu lực nữa.

- Nói chung, người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì phải phạt tù giam đối với tội mới mà không được cho hưởng án treo một lần nữa vì việc phạm tội mới chứng tỏ họ đã không chịu cải tạo tốt. Riêng đối với trường hợp người đã được hưởng án treo phạm tội mới vì vô ý, tác hại gây ra không lớn hoặc phạm tội mới vì cố ý nhưng là tội ít nghiêm trọng, có ít tình tiết giảm nhẹ quy định ở Điều 38 như: gây thiệt hại không lớn, đã thật thà khai báo, đã bồi thường thiệt hại… thì Tòa án có thể phạt cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt đó. Thời gian thử thách còn lại của án treo được tính lồng vào thời gian cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội. Nếu thời gian thử thách của án treo dài hơn thì sau khi hết thời gian cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội, người bị án phải thi hành tiếp thời gian thử thách còn lại của án treo.

Trong trường hợp người đang thi hành án cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội phạm tội mới và bị phạt tù, thì phải áp dụng khoản 1 Điều 43 Bộ luật hình sự chuyển thời gian còn lại của hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo của đơn vị kỷ luật của quân đội thành hình phạt tù (cứ một ngày cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội thành một ngày tù) rồi tổng hợp với hình phạt tù của tội mới và quyết định hình phạt chung theo khoản 2 Điều 42.

- Nếu trong thời gian thử thách của án treo người bị án lại bị xét xử về tội xảy ra trước tội đã xét xử và bị phạt tù giam (tội sau xử trước, tội trước xử sau), thì không coi là phạm tội trong thời gian thử thách. Người bị án phải chấp hành đồng thời hai bản án.

Nắm vững nội dung và vận dụng đúng đắn án treo trong việc xét xử các vụ án hình sự có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác đấu tranh chống và phòng ngừa phạm tội. Vì vậy, các cấp Tòa án cần tổ chức để quán triệt Điều 44 Bộ luật hình sự, quán triệt Thông tư này cùng với sự hướng dẫn về án treo trong Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986 (mục VII, trừ điểm 4) để thực hiện cho đúng đắn và thống nhất.

Đối với những vụ án đã xét xử không đúng với Thông tư này mà bản án đã có hiệu lực pháp luật, thì không cần phải kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, trừ trường hợp việc xét xử đó đã có những sai lầm nghiêm trọng về xem xem và đánh giá chứng cứ, hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ.

(*)Điểm này đã được sửa đổi tại điểm 2 mục II Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16-11-1988 của Hội đồng thẩm phán TANDTC.

(**)- Điểm này đã được sửa đổi bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự ngày 28-12-1989.

Xem nội dung VB
VII- ÁN TREO (ĐIỀU 44 BLHS) (**)

1- Theo Điều 44 Bộ luật hình sự thì án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Tức là căn cứ vào nhân thân của người bị kết án và những tình tiết giảm nhẹ, Tòa án sẽ miễn cho người bị kết án không phải chấp hành hình phạt tù nếu trong thời gian thử thách người đó không phạm tội mới. Vì vậy, khi quyết định hình phạt, Tòa án phải quyết định thời gian phạt tù đúng với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo rồi mới cho hưởng án treo chứ không được nâng cao thời hạn tù án treo vì cho đó là hình phạt nhẹ, và phải tuyên rành rọt là bị cáo bị phạt mấy năm tù nhưng cho hưởng án treo, chứ không được tuyên là mấy năm tù án treo.

Án treo chỉ là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện cho nên không phải là một hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù. Vì vậy, sự giải thích trước đây của Tòa án nhân dân tối cao coi án treo là hình phạt nhẹ hơn (trong bản hướng dẫn về thủ tục xét xử về hình sự kèm theo Thông tư số 19/TATC ngày 02-10-1974 và trong Lời tổng kết hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án nhân dân năm 1976) không còn phù hợp với Bộ luật hình sự.

2- Trong công tác xét xử, các Tòa án cũng cần phải phân biệt những trường hợp phạt cải tạo không giam giữ với những trường hợp phạt tù mà cho hưởng án treo, vì phạt tù mà cho hưởng án treo được áp dụng đối với những trường hợp phạm tội “nặng hơn” những trường hợp được xử phạt bằng cải tạo không giam giữ. Hậu quả pháp lý của hai loại hình phạt cũng khác nhau: người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách và bị phạt tù thì phải chấp hành hình phạt của tội mới tổng hợp với hình phạt của tội cũ. Trái lại, người bị phạt cải tạo không giam giữ đã chấp hành xong hình phạt mà phạm tội mới thì chỉ phải chịu hình phạt về tội mới. Cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với những tội ít nghiêm trọng, nhưng án treo được áp dụng cả đối với trường hợp phạm tội nghiêm trọng mà hình phạt không quá 5 năm tù.

3- Những điều kiện được hưởng án treo đã được Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn trong Thông tư số 2308/NCPL ngày 1-12-1961 (tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập 1, trang 119) nhưng trong điểm a mục c của phần II có nói là người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt cũ nếu trong thời gian thử thách mà họ phạm tội mới “cùng tính chất với tội cũ, thì nay không phù hợp với Bộ luật hình sự vì Điều 44 chỉ quy định đơn giản là: nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội mới và bị xử phạt tù thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án mới. Như vậy là tội phạm cũ và tội phạm mới không nhất thiết phải cùng tính chất.

4- Thời gian thử thách là từ 1 đến 5 năm, tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, hoặc bản án phúc thẩm cho hưởng án treo). Thời gian thử thách không được ít hơn mức án tù đã tuyên, mà ít nhất phải bằng hoặc nhiều hơn (thông thường phải dài hơn) mức án tù đã tuyên. Tuy nhiên, nếu người bị kết án đã bị tạm giam lâu trước khi bản án có hiệu lực pháp luật thì khi quyết định thời gian thử thách, Tòa án cần chú ý giảm cho họ thời gian thử thách. Thí dụ: người phạm tội đã bị tạm giam hai năm và sau đó, bị phạt 3 năm tù nhưng được hưởng án treo thì thời gian thử thách có thể chỉ là một năm. Trong trường hợp đặc biệt có thể miễn cho họ thời gian thử thách nếu Tòa án chỉ phạt tù dưới mức thời gian mà họ đã bị tạm giam (*)

5- Về nguyên tắc, cấp phúc thẩm không được làm xấu tình trạng của bị cáo nếu không có kháng cáo hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc của người bị hại yêu cầu tăng nặng hình phạt. Vì vậy, trong trường hợp bị cáo được cấp sơ thẩm cho hưởng án treo thì cần xác định những trường hợp làm xấu tình trạng của bị cáo và những trường hợp xử phạt có lợi cho họ như sau:

- Làm xấu tình trạng của bị cáo là: tăng hình phạt tù đã cho hưởng án treo; tăng thời gian thử thách; chuyển án treo thành án tù, dù là thời hạn tù được giảm nhiều so với thời hạn tù đựơc hưởng án treo; chuyển án tù giam thành án treo nhưng với thời hạn tù cho hưởng án treo dài hơn thời hạn tù giam (thí dụ: đổi 3 năm tù giam thành 5 năm tù cho hưởng án treo).

- Xử phạt có lợi cho bị cáo là: giảm hình phạt tù cho hưởng án treo; giảm thời gian thử thách.
Mục này được sửa đổi bởi Mục II Nghị quyết số 02-HĐTP/NQ năm 1988 có hiệu lực từ ngày 16/11/1988 (VB hết hiệu lực: 01/07/2016)
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao họp ngày 16 tháng 11 năm 1988, với sự tham gia của đại diện Bộ Tư pháp và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 5-1-1986 về các vấn đề sau đây:
...
II- THI HÀNH ÁN TREO (điều 44 BLHS) (*)

Trong Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 5-1-1986 (mục VII) Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn là trong trường hợp đặc biệt người được hưởng án treo đã bị tạm giam lâu thì Tòa án nhân dân có thể miễn cho họ thời gian thử thách của án treo, nhưng sau đó tại công văn số 108-HĐNN ngày 19-6-1987, Hội đồng Nhà nước đã giải thích là trong bất cứ trường hợp án treo nào cũng không được miễn thời gian thử thách. Vì vậy trong khi Hội đồng thẩm phán chưa họp được, Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ra Thông tư số 01-NCPL ngày 6-4-1988 hướng dẫn bổ sung về án treo.

Căn cứ vào sự giải thích của Hội đồng Nhà nước và điều 226 của Bộ luật tố tụng hình sự đã được Quốc hội thông qua, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung về án treo như sau:

1- Thời gian thử thách của án treo.

Theo điều 44 Bộ luật hình sự, thời gian thử thách của án treo là từ 1 năm đến 5 năm và thời gian thử thách là bắt buộc, dù người được hưởng án treo đã bị tạm giam lâu. Thông thường thì thời gian thử thách phải bằng hoặc dài hơn mức hình phạt đã tuyên, nhưng trong bất cứ trường hợp nào cũng không được dưới 1 năm hoặc quá 5 năm. Nếu Tòa án tuyên thời gian thử thách dưới 1 năm hoặc trên 5 năm là trái pháp luật.

2- Cách tính thời gian thử thách

Thông tư số 01-NCPL ngày 6-4-1988 có hướng dẫn là thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án treo đầu tiên, tức là tùy trường hợp có thể là ngày tuyên án sơ thẩm, phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm. Cach tính này nhằm giải quyết cho người bị kết án đỡ bị thiệt thòi vì việc xử phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm thường chậm.

Nay điều 226 quy định “Những bản án và quyết định được thi hành là những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật”. Do đó, từ nay thống nhất tính thời gian thử thách của án treo từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Bản án có hiệu lực pháp luật là những bản án được quy định tại khoản 1 điều 226 Bộ luật tố tụng hình sự. Trong khi vận dụng điểm b khoản 1 điều 226, cần chú ý là đối với các trường hợp bản án và quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì thời gian thử thách của án treo tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Thí dụ: một người bị Tòa án cấp sơ thẩm phạt 1 năm tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 18 tháng. Bản án không bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Sau 10 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo phạm tội mới. Như vậy là bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách của án treo. Ngược lại nếu bản án sơ thẩm đó bị kháng cáo hoặc kháng nghị, thì không được coi bị cáo phạm tội mới trong thời gian thử thách của án treo và do đó, khi phạt tù bị cáo về tội mới không buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù đã được hưởng án treo và tổng hợp hình phạt đó với hình phạt tù về tội mới, nhưng cần phạt nặng hơn các trường hợp bình thường, và trong bản án phải nêu rõ tình tiết nặng là phạm tội nhiều lần. Trong truờng hợp này bị cáo phải đồng thời chấp hành hai hình phạt.

3- Tổng hợp hình phạt khi người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách.

a) Khoản 5 điều 44 Bộ luật hình sự quy định: “Nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội mới và bị phạt tù thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định của khoản 2 điều 42”. “Khi xét xử một người đang chấp hành bản án mà lại phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó cộng với hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung. Hình phạt chung không được vượt mức cao nhất mà luật quy định cho loại hình phạt đã tuyên”. Vì vậy, những trường hợp, Tòa án đã tổng hợp hình phạt của hai bản án (hình phạt tù được hưởng án treo và hình phạt tù mới), nhưng chỉ bắt chấp hành hình phạt chung là hình phạt của bản án mới trong khi hình phạt chung đó không vượt mức cao nhất mà luật quy định cho loại hình phạt đã tuyên là trái pháp luật và làm cho án treo mất hết ý nghĩa của nó. Vì vậy, phải cộng toàn bộ các hình phạt của hai bản án và quyết định hình phạt chung theo tinh thần của khoản 5 điều 44 và khoản 2 điều 42 Bộ luật hình sự. Nếu bị cáo đã bị tạm giam thì thời gian tạm giam về tội cũ cũng như thời gian tạm giam về tội mới được trừ vào thời gian phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

Nếu hết thời gian thử thách của án treo mới phát hiện được tội phạm xảy ra trong thời gian thử thách, mà tội này bị phạt tù giam, thì là phạm tội trong thời gian thử thách, và tổng hợp hình phạt như đã nói trên. Nếu người bị án đã được Tòa án cấp giấy chứng nhận đương nhiên xóa án đối với tội cũ được hưởng án treo thì giấy chứng nhận này không còn giá trị nữa.

b) Nói chung người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án nên phat tù giam đối với tội mới và không cho hưởng án treo một lần nữa, vì việc phạm tội mới chứng tỏ họ đã không chịu cải tạo tốt. Tuy nhiên, Thông tư số 01-NCPL ngày 6-4-1988 có hướng dẫn là riêng đối với trường hợp người đã được hưởng án treo mà phạm tội mới vì vô ý, nhưng là tội ít nghiêm trọng, có những tình tiết giảm nhẹ quy định ở điều 38 Bộ luật hình sự như gây thiệt hại… thì Tòa án có thể phạt cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt đó.

Sự hướng dẫn nói trên không thật chính xác nên cần sữa lại là: Nếu người được hưởng án treo đã phạm tội mới, nhưng là tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, thì có thể không phạt tù giam mà phạt cải tạo không giam giữ (hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội đối với quân nhân). Khoản 3 của điều 38 còn quy định là: “Khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Vì vậy, trong trường hợp luật đã quy định chỉ có hình phạt tù thì Tòa án có thể phạt cải tạo không giam giữ (hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội đối với quân nhân) hay cảnh cáo… Trong trường hợp này, người bị kết án phải chấp hành đồng thời hai bản án.

c) Người bị phạt tù được hưởng án treo chỉ phải chấp hành hình phạt tù nếu họ phạm tội mới trong thời gian thử thách. Do đó, nếu họ đã bị phạt tù về một tội và đựơc hưởng án treo, nhưng trong thời gian thử thách đối với tội này lại bị xét xử về tội phạm đã thực hiện trước khi bị xét xử và được hưởng án treo thì tùy trường hợp mà Tòa án phạt tù họ hoặc cho họ hưởng án treo một lần nữa. Nếu Tòa án phạt tù họ thì họ phải chấp hành đồng thời hai bản án, trừ trường hợp bản án đã cho bị cáo hưởng án treo sai lầm nghiêm trọng tới mức phải bị sửa chữa, hủy bỏ theo thủ tục giám đốc thẩm. Nếu Tòa án cho họ hưởng án treo một lần nữa, thì Tòa án quyết định hình phạt tù, ấn định thời gian thử thách của án treo, rồi tổng hợp các hình phạt của hai bản án bằng cách: Tổng hợp các hình phạt tù thành một hình phạt chung, rồi ấn định thời gian thử thách chung tính từ ngày bắt đầu thời gian thử thách của án treo của bản án trước và thời gian thử thách chung không vượt quá 5 năm. Trong trường hợp việc phạm tội của họ có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án cũng có thể quyết định phạt họ cải tạo không giam giữ (hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội đối với quân nhân) hay cảnh cáo như trong trường hợp đã nêu ở điểm b trên đây và có nghĩa là người bị kết án phải chấp hành đồng thời hai bản án.

Sự hướng dẫn trên đây về án treo thay thế cho phần hướng dẫn về án treo trong Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 5-1-1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Thông tư số 01-NCPL ngày 6-4-1988 của Tòa án nhân dân tối cao.

Xem nội dung VB
VII- ÁN TREO (ĐIỀU 44 BLHS) (**)

1- Theo Điều 44 Bộ luật hình sự thì án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Tức là căn cứ vào nhân thân của người bị kết án và những tình tiết giảm nhẹ, Tòa án sẽ miễn cho người bị kết án không phải chấp hành hình phạt tù nếu trong thời gian thử thách người đó không phạm tội mới. Vì vậy, khi quyết định hình phạt, Tòa án phải quyết định thời gian phạt tù đúng với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo rồi mới cho hưởng án treo chứ không được nâng cao thời hạn tù án treo vì cho đó là hình phạt nhẹ, và phải tuyên rành rọt là bị cáo bị phạt mấy năm tù nhưng cho hưởng án treo, chứ không được tuyên là mấy năm tù án treo.

Án treo chỉ là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện cho nên không phải là một hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù. Vì vậy, sự giải thích trước đây của Tòa án nhân dân tối cao coi án treo là hình phạt nhẹ hơn (trong bản hướng dẫn về thủ tục xét xử về hình sự kèm theo Thông tư số 19/TATC ngày 02-10-1974 và trong Lời tổng kết hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án nhân dân năm 1976) không còn phù hợp với Bộ luật hình sự.

2- Trong công tác xét xử, các Tòa án cũng cần phải phân biệt những trường hợp phạt cải tạo không giam giữ với những trường hợp phạt tù mà cho hưởng án treo, vì phạt tù mà cho hưởng án treo được áp dụng đối với những trường hợp phạm tội “nặng hơn” những trường hợp được xử phạt bằng cải tạo không giam giữ. Hậu quả pháp lý của hai loại hình phạt cũng khác nhau: người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách và bị phạt tù thì phải chấp hành hình phạt của tội mới tổng hợp với hình phạt của tội cũ. Trái lại, người bị phạt cải tạo không giam giữ đã chấp hành xong hình phạt mà phạm tội mới thì chỉ phải chịu hình phạt về tội mới. Cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với những tội ít nghiêm trọng, nhưng án treo được áp dụng cả đối với trường hợp phạm tội nghiêm trọng mà hình phạt không quá 5 năm tù.

3- Những điều kiện được hưởng án treo đã được Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn trong Thông tư số 2308/NCPL ngày 1-12-1961 (tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập 1, trang 119) nhưng trong điểm a mục c của phần II có nói là người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt cũ nếu trong thời gian thử thách mà họ phạm tội mới “cùng tính chất với tội cũ, thì nay không phù hợp với Bộ luật hình sự vì Điều 44 chỉ quy định đơn giản là: nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội mới và bị xử phạt tù thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án mới. Như vậy là tội phạm cũ và tội phạm mới không nhất thiết phải cùng tính chất.

4- Thời gian thử thách là từ 1 đến 5 năm, tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, hoặc bản án phúc thẩm cho hưởng án treo). Thời gian thử thách không được ít hơn mức án tù đã tuyên, mà ít nhất phải bằng hoặc nhiều hơn (thông thường phải dài hơn) mức án tù đã tuyên. Tuy nhiên, nếu người bị kết án đã bị tạm giam lâu trước khi bản án có hiệu lực pháp luật thì khi quyết định thời gian thử thách, Tòa án cần chú ý giảm cho họ thời gian thử thách. Thí dụ: người phạm tội đã bị tạm giam hai năm và sau đó, bị phạt 3 năm tù nhưng được hưởng án treo thì thời gian thử thách có thể chỉ là một năm. Trong trường hợp đặc biệt có thể miễn cho họ thời gian thử thách nếu Tòa án chỉ phạt tù dưới mức thời gian mà họ đã bị tạm giam (*)

5- Về nguyên tắc, cấp phúc thẩm không được làm xấu tình trạng của bị cáo nếu không có kháng cáo hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc của người bị hại yêu cầu tăng nặng hình phạt. Vì vậy, trong trường hợp bị cáo được cấp sơ thẩm cho hưởng án treo thì cần xác định những trường hợp làm xấu tình trạng của bị cáo và những trường hợp xử phạt có lợi cho họ như sau:

- Làm xấu tình trạng của bị cáo là: tăng hình phạt tù đã cho hưởng án treo; tăng thời gian thử thách; chuyển án treo thành án tù, dù là thời hạn tù được giảm nhiều so với thời hạn tù đựơc hưởng án treo; chuyển án tù giam thành án treo nhưng với thời hạn tù cho hưởng án treo dài hơn thời hạn tù giam (thí dụ: đổi 3 năm tù giam thành 5 năm tù cho hưởng án treo).

- Xử phạt có lợi cho bị cáo là: giảm hình phạt tù cho hưởng án treo; giảm thời gian thử thách.
Mục này được sửa đổi bởi Thông tư 01-TAND/TT-1988 có hiệu lực từ ngày 21/04/1988
Mục này được sửa đổi bởi Mục II Nghị quyết số 02-HĐTP/NQ năm 1988 có hiệu lực từ ngày 16/11/1988 (VB hết hiệu lực: 01/07/2016)
Mục này được sửa đổi bởi Mục III Nghị quyết số 02-HĐTP/NQ năm 1988 có hiệu lực từ ngày 16/11/1988 (VB hết hiệu lực: 01/07/2016)
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao họp ngày 16 tháng 11 năm 1988, với sự tham gia của đại diện Bộ Tư pháp và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 5-1-1986 về các vấn đề sau đây:
...
III- TỔNG HỢP CÁC HÌNH PHẠT TÙ GIAM (điều 41 BLHS)

Trong thời gian qua, đối với trường hợp bị cáo phạm nhiều tội, một số Tòa án do chưa nắm vững quy định của Bộ luật hình sự, nên đã quyết định hình phạt chung không phù hợp với những tội phạm mà bị cáo đã thực hiện. Đặc biệt là có trường hợp hình phạt chung hoàn toàn không hợp lý. Thí dụ: một bị cáo bị phạt 8 năm tù về một tội và bị phạt 3 năm tù về một tội khác, khi tổng hợp các hình phạt Tòa án đã quyết định thu hút toàn bộ hình phạt nhẹ hơn vào hình phạt nặng hơn, nên hình phạt chung cho cả hai tội chỉ còn có 8 năm tù, cho nên hình phạt chung này không tương ứng với toàn bộ các tội phạm mà bị cáo đã thực hiện.

Điều 41 Bộ luật hình sự đã quy định là “Khi xét xử một lần người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với mỗi tội, sau đó quyết định hình phạt chung. Hình phạt chung không được vượt quá mức cao nhất của khung hình phạt mà luật quy định đối với tội nặng nhất đã phạm và trong phạm vi loại hình phạt đã tuyên”. Căn cứ vào các điều 41, 42 và 43 Bộ luật hình sự, Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 5-1-1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn về việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp bị cáo phạm nhiều tội và tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.

Để uốn nắn những lệch lạc của một số Tòa án trong việc tổng hợp hình phạt đối với bị cáo phạm nhiều tội, Tòa án nhân dân tối cao đã có Thông tư số 02-TT/TATC ngày 2-8-1988 hướng dẫn thêm về việc tổng hợp hình phạt trong những trường hợp nói trên. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hoàn toàn thống nhất với nội dung Thông tư đó, và hướng dẫn thêm về quyết định hình phạt chung khi xét xử một lần bị cáo phạm nhiều tội và bị phạt tù giam như sau:

1- Về nguyên tắc phải cộng các hình phạt mà Tòa án đã tuyên đối với các tội phạm của bị cáo thành hình phạt chung, nếu hình phạt chung không vượt quá mức cao nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với tội nặng nhất. Thí dụ: bị cáo phạm tội cướp tài sản của công dân bị phạt 8 năm tù theo khoản 1 điều 151 Bộ luật hình sự (với khung hình phạt là từ 3 năm đến 12 năm tù). Đồng thời y còn phạm tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa bị phạt 3 năm tù theo khoản 1 điều 132 Bộ luật hình sự (với khung hình phạt là từ 6 tháng đến 5 năm tù). Trong trường hợp này thì hình phạt chung phải là 8 năm tù cộng với 3 năm tù thành 11 năm tù, mà không thể dưới 11 năm tù.

2- Nếu cộng tất cả các hình phạt đã tuyên đối với các tội phạm mà vượt mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội nặng nhất, thì hình phạt chung phải là mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội nặng nhất mà không thể thấp hơn hoặc cao hơn. Thí dụ: bị cáo bị phạt 10 năm tù về tội cướp tài sản của công dân theo khoản 1 điều 151 Bộ luật hình sự (với khung hình phạt là từ 3 năm tù đến 12 năm tù). Đồng thời y còn bị phạt 3 năm tù về tội hiếp dâm theo khoản 1 điều 112 Bộ luật hình sự (với khung hình phạt là từ 1 đến 5 năm tù). Trong trường hợp nay, không thể cộng tất cả hình phạt của 2 tội là 10 năm tù và 3 năm tù thành 13 năm tù, vì như vậy thì hình phạt chung đó vượt quá mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội nặng nhất là 12 năm tù. Do đó, hình phạt chung chỉ là 12 năm tù.

3- Trong trường hợp các tội của bị cáo đều bị xử phạt theo khung hình phạt có mức cao nhất giống nhau (như: tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa theo khoản 1 điều 134 Bộ luật hình sự và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài xã hội chủ nghĩa theo khoản 1 điều 135 Bộ luật hình sự đều có khung hình phạt chung đó, việc quyết định hình phạt chung cũng theo các hướng dẫn ở các điểm 1 và 2 nói trên.

Về quyết định hình phạt chung trong trường hợp bị cáo đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới, hoặc tổng hợp hình phạt khác loại thì các Tòa án vẫn thực hiện theo sự hướng dẫn về tổng hợp hình phạt trong Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 5-1-1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Xem nội dung VB
VI- TỔNG HỢP HÌNH PHẠT (các Điều 41, 42, và 43 BLHS)

Cần chú ý Bộ luật hình sự đã quy định cách tổng hợp hình phạt khác nhau khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 41) và tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 42).

A- Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 41).

1. Khi xét xử cùng một lần người phạm nhiều tội, cần chú ý là Tòa án phải quyết định hình phạt đối với từng tội, sau đó quyết định hình phạt chung cho các tội.

Khi định tội danh và quyết định hình phạt, phải ghi rõ tên tội, điều luật, khoản nào, điểm nào của điều luật đã được áp dụng vì điều này sẽ có ảnh hưởng quan trọng về sau đối với việc xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, thời hiệu thi hành án, thủ tục xóa án v.v…

2. Việc quyết định hình phạt chung trong trường hợp phạm nhiều tội (*)có thể thực hiện bằng hai cách: thu hút hình phạt nhẹ vào hình phạt nặng nhất; hoặc cộng toàn bộ hình phạt đã tuyên về từng tội, hay là cộng vào hình phạt nặng nhất một phần các hình phạt đã tuyên. Hai cách đó đều có thể thực hiện nhưng cần chú ý là Bộ luật hình sự đã quy định rõ mức cao nhất của hình phạt chung không được vượt quá mức cao nhất của “khung hình phạt” mà luật quy định đối với tội nặng nhất đã phạm và trong phạm vi loại hình phạt đã tuyên. Thí dụ: Bị cáo phạm 3 tội: cướp tài sản xã hội chủ nghĩa, bị phạt 10 năm tù theo khoản 1 Điều 129; trộm tài sản riêng của công dân bị phạt 6 năm tù theo khoản 2 Điều 155; và hiếp dâm, bị phạt 3 năm tù theo khoản 1 Điều 112. Nếu cộng toàn bộ hình phạt thì bị cáo bị phạt 19 năm tù. Tuy nhiên, trong trường hợp này, hình phạt cao nhất theo khoản 1 Điều 129 về tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa là tội nặng nhất là 15 năm tù, nên Tòa án chỉ có thể quyết định phạt hình chung cao nhất là 15 năm tù.
Mục này được sửa đổi bởi Mục III Nghị quyết số 02-HĐTP/NQ năm 1988 có hiệu lực từ ngày 16/11/1988 (VB hết hiệu lực: 01/07/2016)
Mục này được sửa đổi bởi Mục III Nghị quyết số 02-HĐTP/NQ năm 1988 có hiệu lực từ ngày 16/11/1988 (VB hết hiệu lực: 01/07/2016)
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao họp ngày 16 tháng 11 năm 1988, với sự tham gia của đại diện Bộ Tư pháp và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 5-1-1986 về các vấn đề sau đây:
...
III- TỔNG HỢP CÁC HÌNH PHẠT TÙ GIAM (điều 41 BLHS)

Trong thời gian qua, đối với trường hợp bị cáo phạm nhiều tội, một số Tòa án do chưa nắm vững quy định của Bộ luật hình sự, nên đã quyết định hình phạt chung không phù hợp với những tội phạm mà bị cáo đã thực hiện. Đặc biệt là có trường hợp hình phạt chung hoàn toàn không hợp lý. Thí dụ: một bị cáo bị phạt 8 năm tù về một tội và bị phạt 3 năm tù về một tội khác, khi tổng hợp các hình phạt Tòa án đã quyết định thu hút toàn bộ hình phạt nhẹ hơn vào hình phạt nặng hơn, nên hình phạt chung cho cả hai tội chỉ còn có 8 năm tù, cho nên hình phạt chung này không tương ứng với toàn bộ các tội phạm mà bị cáo đã thực hiện.

Điều 41 Bộ luật hình sự đã quy định là “Khi xét xử một lần người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với mỗi tội, sau đó quyết định hình phạt chung. Hình phạt chung không được vượt quá mức cao nhất của khung hình phạt mà luật quy định đối với tội nặng nhất đã phạm và trong phạm vi loại hình phạt đã tuyên”. Căn cứ vào các điều 41, 42 và 43 Bộ luật hình sự, Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 5-1-1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn về việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp bị cáo phạm nhiều tội và tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.

Để uốn nắn những lệch lạc của một số Tòa án trong việc tổng hợp hình phạt đối với bị cáo phạm nhiều tội, Tòa án nhân dân tối cao đã có Thông tư số 02-TT/TATC ngày 2-8-1988 hướng dẫn thêm về việc tổng hợp hình phạt trong những trường hợp nói trên. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hoàn toàn thống nhất với nội dung Thông tư đó, và hướng dẫn thêm về quyết định hình phạt chung khi xét xử một lần bị cáo phạm nhiều tội và bị phạt tù giam như sau:

1- Về nguyên tắc phải cộng các hình phạt mà Tòa án đã tuyên đối với các tội phạm của bị cáo thành hình phạt chung, nếu hình phạt chung không vượt quá mức cao nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với tội nặng nhất. Thí dụ: bị cáo phạm tội cướp tài sản của công dân bị phạt 8 năm tù theo khoản 1 điều 151 Bộ luật hình sự (với khung hình phạt là từ 3 năm đến 12 năm tù). Đồng thời y còn phạm tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa bị phạt 3 năm tù theo khoản 1 điều 132 Bộ luật hình sự (với khung hình phạt là từ 6 tháng đến 5 năm tù). Trong trường hợp này thì hình phạt chung phải là 8 năm tù cộng với 3 năm tù thành 11 năm tù, mà không thể dưới 11 năm tù.

2- Nếu cộng tất cả các hình phạt đã tuyên đối với các tội phạm mà vượt mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội nặng nhất, thì hình phạt chung phải là mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội nặng nhất mà không thể thấp hơn hoặc cao hơn. Thí dụ: bị cáo bị phạt 10 năm tù về tội cướp tài sản của công dân theo khoản 1 điều 151 Bộ luật hình sự (với khung hình phạt là từ 3 năm tù đến 12 năm tù). Đồng thời y còn bị phạt 3 năm tù về tội hiếp dâm theo khoản 1 điều 112 Bộ luật hình sự (với khung hình phạt là từ 1 đến 5 năm tù). Trong trường hợp nay, không thể cộng tất cả hình phạt của 2 tội là 10 năm tù và 3 năm tù thành 13 năm tù, vì như vậy thì hình phạt chung đó vượt quá mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội nặng nhất là 12 năm tù. Do đó, hình phạt chung chỉ là 12 năm tù.

3- Trong trường hợp các tội của bị cáo đều bị xử phạt theo khung hình phạt có mức cao nhất giống nhau (như: tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa theo khoản 1 điều 134 Bộ luật hình sự và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài xã hội chủ nghĩa theo khoản 1 điều 135 Bộ luật hình sự đều có khung hình phạt chung đó, việc quyết định hình phạt chung cũng theo các hướng dẫn ở các điểm 1 và 2 nói trên.

Về quyết định hình phạt chung trong trường hợp bị cáo đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới, hoặc tổng hợp hình phạt khác loại thì các Tòa án vẫn thực hiện theo sự hướng dẫn về tổng hợp hình phạt trong Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 5-1-1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Xem nội dung VB
VI- TỔNG HỢP HÌNH PHẠT (các Điều 41, 42, và 43 BLHS)

Cần chú ý Bộ luật hình sự đã quy định cách tổng hợp hình phạt khác nhau khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 41) và tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 42).

A- Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 41).

1. Khi xét xử cùng một lần người phạm nhiều tội, cần chú ý là Tòa án phải quyết định hình phạt đối với từng tội, sau đó quyết định hình phạt chung cho các tội.

Khi định tội danh và quyết định hình phạt, phải ghi rõ tên tội, điều luật, khoản nào, điểm nào của điều luật đã được áp dụng vì điều này sẽ có ảnh hưởng quan trọng về sau đối với việc xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, thời hiệu thi hành án, thủ tục xóa án v.v…

2. Việc quyết định hình phạt chung trong trường hợp phạm nhiều tội (*)có thể thực hiện bằng hai cách: thu hút hình phạt nhẹ vào hình phạt nặng nhất; hoặc cộng toàn bộ hình phạt đã tuyên về từng tội, hay là cộng vào hình phạt nặng nhất một phần các hình phạt đã tuyên. Hai cách đó đều có thể thực hiện nhưng cần chú ý là Bộ luật hình sự đã quy định rõ mức cao nhất của hình phạt chung không được vượt quá mức cao nhất của “khung hình phạt” mà luật quy định đối với tội nặng nhất đã phạm và trong phạm vi loại hình phạt đã tuyên. Thí dụ: Bị cáo phạm 3 tội: cướp tài sản xã hội chủ nghĩa, bị phạt 10 năm tù theo khoản 1 Điều 129; trộm tài sản riêng của công dân bị phạt 6 năm tù theo khoản 2 Điều 155; và hiếp dâm, bị phạt 3 năm tù theo khoản 1 Điều 112. Nếu cộng toàn bộ hình phạt thì bị cáo bị phạt 19 năm tù. Tuy nhiên, trong trường hợp này, hình phạt cao nhất theo khoản 1 Điều 129 về tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa là tội nặng nhất là 15 năm tù, nên Tòa án chỉ có thể quyết định phạt hình chung cao nhất là 15 năm tù.
Mục này được sửa đổi bởi Mục III Nghị quyết số 02-HĐTP/NQ năm 1988 có hiệu lực từ ngày 16/11/1988 (VB hết hiệu lực: 01/07/2016)
Nghị quyết này được bổ sung bởi Mục I Nghị quyết số 02-HĐTP/NQ năm 1988 có hiệu lực từ ngày 16/11/1988 (VB hết hiệu lực: 01/07/2016)
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao họp ngày 16 tháng 11 năm 1988, với sự tham gia của đại diện Bộ Tư pháp và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 5-1-1986 về các vấn đề sau đây:

I- PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC (khoản 3 điều 17 BLHS)

Khoản 3 điều 17 Bộ luật hình sự quy định: “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”. Do đó cần phải phân biệt phạm tội có tổ chức với những trường hợp đồng phạm khác, vì phạm tội có tổ chức là một trong những tình tiết tăng nặng quy định ở điều 39 Bộ luật hình sự; và đối với nhiều tội phạm, phạm tội có tổ chức còn là một tình tiết định khung hình phạt cao hơn. Việc xác định phạm tội có tổ chức nhiều khi còn có hậu quả là Tòa án nhân dân cấp huyện không có thẩm quyền xét xử vụ án, và nếu khung hình phạt được áp dụng có mức cao nhất là tử hình, thì điều 160 Bộ luật tố tụng hình sự còn quy định là Hội đồng xét xử phải có 5 người (2 thẩm phán và 3 hội thẩm nhân dân) và điều 37 quy định là nếu bị cáo không nhờ người bào chữa thì Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho bị cáo.

Thực tiễn xét xử cho thấy do chưa có quan niệm thống nhất cho nên một số Tòa án đã lẫn lộn phạm tội có tổ chức quy định ở khoản 3 điều 17 Bộ luật hình sự với những trường hợp đồng phạm khác. Vì vậy để phân biệt phạm tội có tổ chức với những trường hợp đồng phạm khác cần phải chú ý đến các vấn đề sau đây:

1- Trong phạm tội có tổ chức và những trường hợp đồng phạm khác đều phải có từ 2 người trở lên cố ý cùng tham gia phạm tội và có sự nhất trí của những người cùng thực hiện tội phạm. Nếu cùng thực hiện tội phạm mà không có sự nhất trí thì không phải là đồng phạm (thí dụ: nhiều người cùng vào hôi của ở một nhà bị cháy, nhưng không có bàn bạc trước hoặc xúi giục nhau phạm tội).

2- Nói chung, trong các trường hợp đồng phạm những người phạm tội thường có bàn bạc trước và sự phân công thực hiện tội phạm, nhưng không phải bắt cứ trường hợp nào có bàn bạc trước và có phân công thực hiện tội phạm đều là phạm tội có tổ chức, vì phạm tội có tổ chức phải có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Vì vậy, nếu việc thực hiện tội phạm giản đơn, không đòi hỏi phải có sự tính toán và chuẩn bị kỹ càng, chu đáo thì không phải là phạm tội có tổ chức. Thí dụ: Hai thanh niên muốn có tiều tiêu, nên rủ nhau đi ăn cắp xe đạp, khi gặp người để xe sơ hở đã phân công một người canh gác và một người lấy xe…

3- Phạm tội có tổ chức phải có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Trong thực tế, sự câu kết này có thể thể hiện dưới các dạng sau đây:

a) Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội như: đảng phái, hội, đoàn phản động, băng, ổ trộm, cướp… có những tên chỉ huy, cầm đầu. Tuy nhiên, cũng có khi tổ chức phạm tội không có những tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp những tên chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động phạm tội. Thí dụ: sau khi đã hết hạn tù, một số tên chuyên trộm cắp đã tập hợp nhau lại và thống nhất cùng nhau tiếp tục hoạt động phạm tội.

b) Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước. Thí dụ: một số nhân viên nhà nước đã thông đồng với nhau tham ô nhiều lần; một số tên chuyên cùng nhau đi trộm cắp; một số tên hoạt động đầu cơ, buôn lậu có tổ chức đường dây để nắm nguồn hàng, vận chuyển, thông tin về giá cả…

c) Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần, nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo, có chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm. Thí dụ: Trong các trường hợp trộm cắp, cướp tài sản của công dân mà có phân công điều tra trước về nơi ở, quy luật sinh hoạt của gia đình chủ nhà, phân công chuẩn bị phương tiện và hoạt động của mỗi người đồng phạm; tham ô mà có bàn bạc trước về kế hoạch sửa chữa chứng từ sổ sách, hủy chứng từ, tài liệu hoặc làm giả giấy tờ; giết người mà có bàn bạc hoặc phân công điều tra sinh hoạt của nạn nhân, chuẩn bị phương tiện và kế hoạch che giấu tội phạm v.v…

4- Đối với những trường hợp pháp luật quy định phạm tội có tổ chức là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt theo cao hơn (xem các điều 94, 95, 96, 97, 99, 101, 112, 115, 129, 132, 134, 148, 149, 151, 152, 154, 155, 157, 166, 172, 201, 212, 226, 227, 245 Bộ luật hình sự) thì hành vi của người phạm tội phải được xét xử theo khung đó và không viện dẫn thêm điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật hình sự, tức là phải căn cứ vào vai trò trách nhiệm và nhân thân của mỗi người phạm tội. Nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định của khoản 3 điều 38 Bộ luật hình sự thì đối với người phạm tội có tổ chức, Tòa án vẫn có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, nhưng phải nêu rõ lý do trong bản án.

5- Nếu xác định là phạm tội có tổ chức, nhưng không phải là trường hợp Bộ luật hình sự quy định là tình tiết nặng định khung hình phạt cao hơn thì Tòa án áp dụng điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật hình sự và quyết định mức hình phạt nghiêm khắc hơn những trường hợp bình thường, nhưng không được vượt quá mức cao nhất của khung hình phạt được áp dụng. Thí dụ: đối với tội cưỡng đoạt tài sản của công dân (điều 153 Bộ luật hình sự) nếu là phạm tội có tổ chức, nhưng không có tình tiết quy định ở khoản 2 (như chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn, gây hậu quả nghiêm trọng khác, tái phạm nguy hiểm) thì vẫn áp dụng khoản 1 điều 153, quyết định mức án nghiêm khắc hơn những trường hợp phạm tội không có tổ chức, nhưng hình phạt cao nhất không được vượt quá 3 năm tù.

6- Ngoài các trường hợp phạm tội có tổ chức như đã nêu trên đây, Bộ luật hình sự còn quy định những trường hợp tổ chức thực hiện tội phạm thành những tội danh riêng biệt. Đó là những trường hợp được quy định ở điều 88 (tổ chức người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép), điều 145 (tội tổ chức tảo hôn), điều 200 (tội tổ chức đánh bạc), điều 203 (tội tổ chức dùng chất ma túy). Trong những trường hợp này người phạm tội là người đứng ra tổ chức người khác thực hiện tội phạm, đồng thời cũng có thể là người cùng thực hiện tội phạm đó. Thí dụ: người đứng ra rủ rê, tổ chức người khác trốn đi nước ngoài để lấy tiền, vàng…và bản thân người đó cùng với họ trốn đi nước ngoài. Bộ luật hình sự đã quy định những trường hợp này thành những tội riêng biệt với hình phạt riêng, nên không vận dụng thêm tình tiết tăng nặng là phạm tội có tổ chức theo điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật hình sự nữa.

Xem nội dung VB
NGHỊ QUYẾT CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
Nghị quyết này được bổ sung bởi Mục I Nghị quyết số 02-HĐTP/NQ năm 1988 có hiệu lực từ ngày 16/11/1988 (VB hết hiệu lực: 01/07/2016)
Mục này được hướng dẫn bởi Khoản 2 Mục I Công văn 24/1999/KHXX năm 1999 có hiệu lực từ ngày 17/3/1999
Tại Hội nghị công tác ngành Toà án năm 1998 (từ ngày 4 đến ngày 6 tháng 2 năm 1999), Toà án nhân dân tối cao đã có bản giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng. Tuy nhiên, tại Hội nghị này một số Toà án có ý kiến đề nghị được giải đáp bổ sung một số vấn đề còn vướng mắc trong thực tiễn xét xử. Trong lời bế mặc Hội nghị, Chánh án Toà án nhân dân tối cao thay mặt Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã giải đáp sơ bộ về những vấn đề đó. Để áp dụng đúng và thống nhất pháp luật trong công tác xét xử, Toà án nhân dân tối cao giải đáp những vấn đề được nêu bổ sung tại Hội nghị như sau:

I. VỀ HÌNH SỰ
...
2. Người được miễn trách nhiệm hình sự có phải là người không phạm tội hay không, có phải là hành vi của họ chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự và chỉ có thể bị xử lý hành chính hay không? Khi tuyên bố miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội thì có phải quyết định hình phạt bổ sung hay không, nếu điều luật có quy định hình phạt bổ sung đối với tội đó; trách nhiệm dân sự (nếu có) sẽ giải quyết như thế nào?

Về vấn đề này đã được hướng dẫn cụ thể tại mục VIII Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự" (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1990; trang 22), nay cần nhấn mạnh thêm là "miễn trách nhiệm hình sự" và "Không phạm tội" là hai trường hợp hoàn toàn khác nhau.

- Miễn trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với người phạm tội mà khi họ thực hiện hành vi phạm tội nếu căn cứ vào tình hình hoặc căn cứ vào nhân thân của họ tại thời điểm đó, thì họ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng khi tiến hành điều tra hoặc xét xử do có sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Ví dụ: Một người trộm cắp tài sản của công dân có giá trị 1 triệu đồng. Nếu tại thời điểm họ thực hiện hành vi trộm cắp đó, thì họ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 155 Bộ luật Hình sự, thế nhưng sau khi Viện kiểm sát truy tố ra trước Toà án thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử họ đã lập công lớn trong việc dập tắt một đám cháy và đã bị thương tích nặng. Trong trường hợp này họ có thể được miễn trách nhiệm hình sự vì bản thân họ không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Miễn trách nhiệm hình sự cũng có thể được áp dụng đối với người phạm tội, nếu trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm.

- Không phạm tội là trường hợp hành vi của họ không cấu thành tội phạm (như phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể...), hay họ không thực hiện hành vi phạm tội đó mà là do người khác thực hiện..., có nghĩa là ngay tại thời điểm mà họ thực hiện hành vi đó hay ngay tại thời điểm có hành vi phạm tội xảy ra căn cứ vào các quy định của pháp luật thì họ không phạm tội.

Người được miễn trách nhiệm hình sự không phải chịu trách hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung; tuy nhiên, tuỳ trường hợp cụ thể Toà án có thể quyết định áp dụng biện pháp tư pháp đối với họ và giải quyết trách nhiệm dân sự (nếu có). Tuỳ trường hợp cụ thể người được miễn trách nhiệm hình sự có thể bị xử lý hành chính.

Xem nội dung VB
VIII- MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ (Khoản 2 Điều 48 BLHS)

1- Theo Điều 48 Bộ luật hình sự thì người được miễn trách nhiệm hình sự là người đã phạm một tội quy định trong Bộ luật hình sự nhưng được miễn trách nhiệm hình sự. Miễn trách nhiệm hình sự khác với trường hợp không có trách nhiệm hình sự, tức là những trường hợp hành vi của bị cáo không có sai trái hoặc chỉ đáng xử lý về hành chính (thí dụ: xử lý về vi cảnh, xử lý về hành chính đối với việc đầu cơ mà giá trị hàng hóa phạm pháp từ 2.000 đồng tiền mới trở xuống v.v…). Theo Thông tư số 12-LĐ/TT ngày 28-5-1977 thì người được miễn trách nhiệm hình sự, nếu đã bị giam có thể không được trả lại đủ 100% tiền lương mà vẫn chỉ được hưởng 50% tiền lương và phụ cấp trong thời gian bị tạm giam. Trái lại, nếu họ được xác định là không có trách nhiệm hình sự thì được truy lĩnh 100% tiền lương và phụ cấp.

Vì miễn trách nhiệm hình với không có trách nhiệm hình sự khác nhau như vậy cho nên mỗi trường hợp cần phải được xác định thận trọng, chính xác. Nếu không có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo bị truy tố cấu thành một tội phạm cụ thể thì phải tuyên bố bị cáo không phạm tội, không được tuyên miễn trách nhiệm hình sự một các tùy tiện.

2- Theo Điều 48 Bộ luật hình sự thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự trong những truờng hợp sau đây:

- Do sự chuyển biến của tình hình (chính trị, kinh tế, xã hội) nên tội phạm không còn nguy hiểm đáng kể cho xã hội nữa.

- Truớc khi tội phạm bị phát giác, người phạm tội đã tự thú (*), khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm.

Người được miễn trách nhiệm hình sự thì đương nhiên không bị coi là người can án.

3- Trong giai đoạn điều tra, truy tố thì Viện kiểm sát nhân dân có quyền miễn trách nhiệm hình sự. Trong giai đoạn xét xử thì việc miễn trách nhiệm hình sự do Tòa án quyết định.

Khi miễn trách nhiệm hình sự thì trong phần nhận định của bản án phải nói rõ là bị cáo đã phạm tội gì nhưng được miễn trách nhiệm hình sự và phải nói rõ lý do. Trong phần quyết định của bản án thì chỉ cần nói là miễn trách nhiệm hình sự. Khi đã miễn trách nhiệm hình sự thì Tòa án không được quyết định bất cứ loại hình phạt nào, nhưng vẫn có thể quyết định việc bồi thường cho người bị hại và giải quyết các tang vật.
Mục này được hướng dẫn bởi Khoản 2 Mục I Công văn 24/1999/KHXX năm 1999 có hiệu lực từ ngày 17/3/1999