Thông báo 140/TB-VPCP năm 2021 về kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại buổi làm việc với Bộ Tư pháp về tình hình thực hiện nhiệm vụ, những vấn đề cần quan tâm giải quyết do Văn phòng Chính phủ ban hành
Thông báo 140/TB-VPCP năm 2021 về kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại buổi làm việc với Bộ Tư pháp về tình hình thực hiện nhiệm vụ, những vấn đề cần quan tâm giải quyết do Văn phòng Chính phủ ban hành
Số hiệu: | 140/TB-VPCP | Loại văn bản: | Thông báo |
Nơi ban hành: | Văn phòng Chính phủ | Người ký: | Cao Huy |
Ngày ban hành: | 01/06/2021 | Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Ngày công báo: | Đang cập nhật | Số công báo: | Đang cập nhật |
Tình trạng: | Đã biết |
Số hiệu: | 140/TB-VPCP |
Loại văn bản: | Thông báo |
Nơi ban hành: | Văn phòng Chính phủ |
Người ký: | Cao Huy |
Ngày ban hành: | 01/06/2021 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Ngày công báo: | Đang cập nhật |
Số công báo: | Đang cập nhật |
Tình trạng: | Đã biết |
VĂN PHÒNG CHÍNH
PHỦ |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 140/TB-VPCP |
Hà Nội, ngày 01 tháng 6 năm 2021 |
KẾT LUẬN CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ PHẠM MINH CHÍNH TẠI BUỔI LÀM VIỆC VỚI BỘ TƯ PHÁP VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM GIẢI QUYẾT
Sáng ngày 25 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chủ trì buổi làm việc với Bộ Tư pháp về tình hình thực hiện nhiệm vụ được giao thời gian qua; một số khó khăn, vướng mắc và vấn đề cấp bách cần giải quyết thời gian tới. Tham dự cuộc họp có Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn, lãnh đạo Bộ Tư pháp và đại diện lãnh đạo một số đơn vị của Bộ. Sau khi nghe Bộ trưởng Bộ Tư pháp báo cáo, ý kiến phát biểu của các đồng chí dự họp, ý kiến của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã kết luận như sau:
Ngành tư pháp có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ và mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo Hiến pháp năm 2013; đồng thời thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng tại Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII về 06 giải pháp trọng tâm, 03 đột phá chiến lược, trong đó có đột phá về hoàn thiện thể chế. Trong bối cảnh như vậy, cần nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của ngành tư pháp nói chung và Bộ Tư pháp nói riêng, để ngành tư pháp cùng với cả hệ thống chính trị thống nhất nhận thức và hành động, đưa sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lên tầm cao mới. Từ đó, công tác tư pháp, đặc biệt là công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, pháp luật cần được đầu tư thỏa đáng cả về con người và kinh phí cùng với tăng cường đổi mới về phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm và năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức ngành tư pháp, đội ngũ những người làm công tác pháp chế, xây dựng pháp luật, tạo sự chuyển biến tích cực về chất trong các lĩnh vực hoạt động của ngành.
Trong những năm qua, ngành tư pháp đã triển khai đồng bộ, toàn diện những nhiệm vụ được giao và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, thi hành án và các công tác hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, giải quyết tranh chấp quốc tế, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp luật; tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước những chính sách lớn về tư pháp, pháp luật. Nguyên nhân của những thành công này chủ yếu là: ngành tư pháp đã nghiêm túc và kịp thời triển khai thực hiện sự chỉ đạo, lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, thể chế hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, hoàn thiện thể chế, pháp luật; nhờ sự đoàn kết, nhất trí, nỗ lực và trách nhiệm của cán bộ ngành tư pháp, kế thừa và phát huy thành quả của các thế hệ trước; sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương.
Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành tư pháp cũng còn những hạn chế, bất cập cần sớm được khắc phục, mà nguyên nhân trực tiếp là: nhận thức, sự chỉ đạo của các cấp, các ngành cho công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, pháp luật chưa đầy đủ, chưa ngang tầm với đột phá chiến lược; kỷ luật, kỷ cương còn chưa nghiêm, cá thể hóa trách nhiệm chưa rõ ràng; thi đua, khen thưởng cũng như kỷ luật chưa được chú trọng thích đáng; đầu tư nguồn lực con người cũng như cơ sở vật chất, kinh phí cho công tác này chưa tương xứng; quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn chưa đáp ứng yêu cầu, rườm rà, nhiều tầng nấc, mất nhiều thời gian, công sức dẫn đến lãng phí nguồn lực, mất cơ hội; tính chủ động trong công việc, tinh thần phối hợp giữa các cơ quan trong nhiều trường hợp chưa thực sự tốt.
Trên cơ sở tổng kết công tác thời gian qua, ngành tư pháp cần rút ra một số bài học kinh nghiệm như: cần bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, thực tiễn sinh động của cuộc sống để thể chế hóa kịp thời thành chính sách, pháp luật; chủ động rà soát, tham mưu cho Chính phủ tháo gõ những vướng mắc về thể chế, pháp luật trong thực thi, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, từ đó nâng cao vị thế và uy tín của ngành tư pháp; nâng cao chất lượng thẩm định, nhằm khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, những quy định không phù hợp của hệ thống pháp luật, tất cả vì lợi ích chung, lợi ích quốc gia, dân tộc; coi trọng công tác tổng kết lý luận và thực tiễn, nghiên cứu khoa học, huy động trí tuệ của các nhà khoa học và những nhà hoạt động thực tiễn để phục vụ các nhiệm vụ chính trị, chuyên môn; tăng cường nguồn nhân lực chất lượng cao ngành tư pháp, nhất là về năng lực, đạo đức công vụ; đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí ngang tầm với nhiệm vụ; phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất gắn với phê và tự phê bình trong nội bộ ngành; tăng cường vai trò của truyền thông, phổ biến chính sách, pháp luật; gắn công tác xây dựng pháp luật với thi hành pháp luật để tạo đồng thuận và nâng cao hiểu biết, tôn trọng và thực hiện pháp luật của Nhân dân.
Để phát huy truyền thống và những thành tựu quan trọng đã đạt được qua các thời kỳ, không ngừng đổi mới, sáng tạo, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, nỗ lực vươn lên, vượt qua khó khăn, thách thức, tập trung tháo gõ vướng mắc, khắc phục những hạn chế để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Tư pháp:
1. Bộ Tư pháp là cơ quan tham mưu chiến lược về công tác xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật của Đảng và Nhà nước, giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật, công tác thi hành án và công tác tư pháp. Cần tăng cường nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của ngành tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa; kế thừa truyền thống đoàn kết, tâm huyết, trí tuệ, yêu ngành, yêu nghề của đội ngũ cán bộ ngành tư pháp; khai thác tối đa các nguồn lực, phát huy các thành tựu, kinh nghiệm, bài học, tham mưu cho Đảng và Nhà nước xây dựng hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, tạo môi trường pháp lý an toàn, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng. Từ đó, nâng cao vai trò, uy tín của ngành tư pháp.
2. Quan tâm chỉ đạo công tác xây dựng Đảng trong ngành tư pháp, xây dựng các tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng để lãnh đạo toàn diện các mặt công tác của ngành tư pháp theo tinh thần Nghị quyết Trung 4 Khóa XI, XII gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quy định số 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.
3. Nghiên cứu, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp và tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp các cấp theo hướng sắp xếp, cơ cấu lại bộ máy, tinh gọn đầu mối, tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảm khâu trung gian, một người làm nhiều việc nhưng một việc chỉ giao một người làm, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả; làm rõ chức năng, nhiệm vụ để trên cơ sở đó xây dựng vị trí việc làm của từng đơn vị, cá nhân, phù hợp với Nghị quyết 18-NQ/TW, Nghị quyết 19-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương khóa XII; tăng cường phân công, phân cấp, phân quyền trong các cơ quan, đơn vị trong ngành tư pháp gắn với kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và cá thể hóa trách nhiệm; nâng cao tinh thần trách nhiệm, vai trò gương mẫu của người đứng đầu, quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ bảo đảm về chất lượng theo tinh thần của Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác cán bộ.
4. Chủ động nghiên cứu, rà soát hệ thống pháp luật để tham mưu kịp thời cho Đảng và Nhà nước xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, bảo đảm cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát và dân thụ hưởng; hoàn thiện môi trường pháp lý, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong đầu tư, kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của Nhân dân.
5. Nghiên cứu, đề xuất tiếp tục đổi mới công tác xây dựng pháp luật; trước mắt, tham mưu cho Chính phủ và đôn đốc các bộ, cơ quan áp dụng quy trình rút gọn để sửa nhanh một số điều, khoản đang gây ách tắc cho sản xuất, kinh doanh; tăng cường sự tham gia tích cực, hiệu quả của người dân vào quá trình xây dựng pháp luật. Chú trọng tổng kết, sơ kết thực tiễn đi đôi với nghiên cứu khoa học, phát triển lý luận; đề xuất, tham mưu phải bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo; những vấn đề đã “chín”, đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, được đa số đồng thuận thì cần luật hóa; những vấn đề chưa có quy định pháp luật hoặc quy định đã vượt quá thực tiễn đòi hỏi thì mạnh dạn làm thí điểm, trên cơ sở đó tổng kết, rút kinh nghiệm, tham mưu thể chế hóa. Trong xây dựng pháp luật phải có tinh thần cầu thị, lắng nghe, kể cả ý kiến phản biện, trái chiều, chú ý lấy và tiếp thu ý kiến xác đáng của các cơ quan, tổ chức có liên quan, ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động, tạo sự đồng thuận. Bộ Tư pháp cũng cần tăng cường hơn nữa năng lực thẩm định, phát hiện những mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu thống nhất, lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm trong các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm tính hợp Hiến, hợp pháp, thống nhất, khả thi của hệ thống pháp luật.
6. Coi trọng hội nhập quốc tế, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng để có đội ngũ luật sư, chuyên gia pháp lý giỏi tham gia tư vấn pháp luật trong giải quyết các tranh chấp quốc tế; Bộ Tư pháp cần nâng cao năng lực pháp luật quốc tế, tăng cường vai trò là cơ quan đại diện pháp lý cho Chính phủ trong giải quyết các tranh chấp đầu tư quốc tế, nhằm bảo đảm lợi ích của quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và người dân.
7. Tăng cường chỉ đạo và đổi mới các giải pháp thực hiện nhiệm vụ đi đôi với đầu tư nguồn lực con người và kinh phí trong các lĩnh vực hành chính tư pháp và quản lý nhà nước về bổ trợ tư pháp; khắc phục tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm pháp luật trong một số lĩnh vực dịch vụ pháp lý; đồng thời, chú ý phát huy tối đa vai trò, trí tuệ, tâm huyết của đội ngũ luật sư, nâng cao năng lực, phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ luật sư; chú trọng công tác truyền thông, đẩy mạnh công tác phổ biến chính sách, pháp luật theo hướng truyền thông dẫn dắt, chủ động tuyên truyền về các chính sách, các văn bản pháp luật mới để người dân biết, đồng tình, tin tưởng, ủng hộ, thực hiện, kiểm tra và người dân được thụ hưởng kết quả.
8. Cần coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành tư pháp. Nghiên cứu khả năng hợp nhất một số cơ sở đào tạo để bảo đảm liên thông sử dụng chung cơ sở vật chất, hạ tầng, nguồn nhân lực, tránh phân tán, lãng phí nguồn lực; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng Đề án kiểm soát chất lượng đào tạo, rà soát, đánh giá, sắp xếp lại các cơ sở đào tạo luật không đủ uy tín, chất lượng.
9. Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với các bộ, cơ quan khẩn trương báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả rà soát các văn bản pháp luật theo Nghị quyết số 45/NQ-CP ngày 16 tháng 4 năm 2021 của Chính phủ, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục những văn bản quy phạm pháp luật cần sửa đổi, bổ sung nhanh nhất, trong tháng 6 năm 2021. Đối với những quy định ở các luật, pháp lệnh đang còn mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu đồng bộ, không còn phù hợp với thực tiễn, đang gây khó khăn, vướng mắc cho đầu tư, kinh doanh và đời sống xã hội thì nghiên cứu, xây dựng dự thảo Nghị quyết cả gói trình Quốc hội Khóa XV, Kỳ họp thứ nhất để xử lý tổng thể, kịp thời.
10. Về các kiến nghị của Bộ Tư pháp, Thủ tướng Chính phủ cơ bản đồng ý và yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, theo dõi công tác xây dựng thể chế, pháp luật; thường xuyên rà soát, tổng kết, đánh giá thi hành pháp luật để chủ động tháo gỡ các vướng mắc, sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc đề xuất các cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật tạo điều kiện cho phát triển; thực hiện tốt công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, kịp thời xử lý văn bản trái pháp luật.
Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Tư pháp nghiên cứu, sớm sửa đổi các quy định về kinh phí thỏa đáng cho công tác xây dựng pháp luật, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của công tác này, quan điểm đầu tư cho thể chế là đầu tư phát triển vì vậy phải quan tâm phù hợp với thực tiễn hiện nay tránh tư tưởng hẹp hòi, cố hữu.
Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ bố trí nguồn kinh phí hợp lý, nhằm tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho những lĩnh vực còn yếu và thiếu của ngành tư pháp; đầu tư xây dựng các cơ sở dữ liệu điện tử chuyên ngành theo nguyên tắc chia sẻ, kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia, hỗ trợ môi trường pháp lý thuận lợi, tránh dàn trải, lãng phí.
Văn phòng Chính phủ thông báo để Bộ Tư pháp, các bộ, cơ quan liên quan biết, thực hiện./.
|
KT. BỘ TRƯỞNG,
CHỦ NHIỆM |
(Không có nội dung)
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
(Không có nội dung)
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
-
Ban hành: {{m.News_Dates_Date}} Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}} Tình trạng: {{m.TinhTrang}} Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}} Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}}Tình trạng: {{m.TinhTrang}}Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
-
Ban hành: {{m.News_Dates_Date}} Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}} Tình trạng: {{m.TinhTrang}} Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}} Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}}Tình trạng: {{m.TinhTrang}}Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây