Thông báo 111/TB-VPCP năm 2022 về kết luận của Thường trực Chính phủ Phạm Minh Chính thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành do Văn phòng Chính phủ ban hành
Thông báo 111/TB-VPCP năm 2022 về kết luận của Thường trực Chính phủ Phạm Minh Chính thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành do Văn phòng Chính phủ ban hành
Số hiệu: | 111/TB-VPCP | Loại văn bản: | Thông báo |
Nơi ban hành: | Văn phòng Chính phủ | Người ký: | Nguyễn Cao Lục |
Ngày ban hành: | 14/04/2022 | Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Ngày công báo: | Đang cập nhật | Số công báo: | Đang cập nhật |
Tình trạng: | Đã biết |
Số hiệu: | 111/TB-VPCP |
Loại văn bản: | Thông báo |
Nơi ban hành: | Văn phòng Chính phủ |
Người ký: | Nguyễn Cao Lục |
Ngày ban hành: | 14/04/2022 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Ngày công báo: | Đang cập nhật |
Số công báo: | Đang cập nhật |
Tình trạng: | Đã biết |
VĂN PHÒNG CHÍNH
PHỦ |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 111/TB-VPCP |
Hà Nội, ngày 14 tháng 4 năm 2022 |
KẾT LUẬN CỦA THƯỜNG TRỰC CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TÁC QUY HOẠCH KỂ TỪ KHI LUẬT QUY HOẠCH CÓ HIỆU LỰC THI HÀNH
Ngày 12 tháng 4 năm 2022 tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chủ trì họp Thường trực Chính phủ về việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành. Tham dự cuộc họp có Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh, các Phó Thủ tướng Chính phủ: Lê Minh Khái, Vũ Đức Đam, Lê Văn Thành; Bộ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ; đại diện lãnh đạo các Bộ, cơ quan: Kế hoạch và Đầu tư, Công Thương, Giao thông vận tải, Tư pháp, Quốc phòng, Công an, Tài chính, Lao động - Thương binh và Xã hội, Khoa học và Công nghệ, Giáo dục và Đào tạo, Y tế, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Văn phòng Chính phủ. Sau khi nghe lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo, ý kiến tổng hợp của Văn phòng Chính phủ và ý kiến của đại diện các bộ, cơ quan, Thường trực Chính phủ kết luận như sau:
1. Luật Quy hoạch năm 2017 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2019 đã có cách tiếp cận, tư duy mới về quy hoạch của các cấp, các ngành. Các địa phương đã nâng cao nhận thức về công tác quy hoạch, về tầm quan trọng, vị trí, vai trò của công tác quy hoạch trong phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, cũng còn nhiều tồn tại hạn chế như: nội hàm quy hoạch tổng thể quốc gia, khái niệm tích hợp quy hoạch hay quy hoạch tích hợp, thử bậc quy hoạch cấp trên, cấp dưới được lập từ trên xuống hay từ dưới lên, khái niệm về lập đồng thời các quy hoạch, mối quan hệ giữa các quy hoạch ngành quốc gia... Đây là những vấn đề mới chưa có tiền lệ, vì vậy quá trình thực hiện Luật Quy hoạch rất vướng mắc, cần sớm được tháo gỡ, trong đó có việc sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Quy hoạch.
2. Đánh giá cao Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nỗ lực, cố gắng phối hợp với các Bộ, cơ quan chuẩn bị các Báo cáo “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành”. Báo cáo đã cơ bản đánh giá được công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện chính sách, pháp luật về quy hoạch thời gian qua, cũng như đánh giá một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện hành. Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu tiếp thu ý kiến của Thường trực Chính phủ, các Bộ, cơ quan tại cuộc họp để hoàn thiện Báo cáo trên tinh thần khách quan, phải nói thẳng, nói thật, nói trúng, nói đúng, không né tránh; quyết tâm thực hiện, nhưng chưa đúng thì cần phải sửa, trong đó lưu ý làm sâu sắc thêm nội dung sau:
- Đánh giá rõ các kết quả đạt được, chưa được trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; việc ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến quy hoạch; việc lập, thẩm định, phê duyệt các quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia; việc xây dựng, vận hành, khai thác hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về công tác quy hoạch.
- Làm rõ các nguyên nhân khách quan (Quy hoạch là nhiệm vụ mới và khó, có nhiều quy định mới cả về nội dung và phương pháp lập; vấn đề chồng chéo, mâu thuẫn giữa Luật Quy hoạch với Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch đô thị; về nguồn lực thực hiện lập quy hoạch;...), nguyên nhân chủ quan ban hành chậm các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Quy hoạch; tư duy, nhận thức về đổi mới công tác quy hoạch; công tác lãnh đạo chỉ đạo của các cấp, các ngành chưa theo kịp yêu cầu; việc đầu tư: nghiên cứu, nguồn lực, phương tiện, điều kiện làm việc cho công tác quy hoạch;...) và trách nhiệm cụ thể của các cơ quan liên quan.
- Làm rõ những vấn đề chưa hợp lý, vướng mắc của Luật Quy hoạch như nội hàm của quy hoạch tổng thể quốc gia; khái niệm tích hợp quy hoạch; nguồn vốn cho công tác quy hoạch; tiến độ lập quy hoạch..., từ đó đề xuất các giải pháp, phương thức nhằm giải quyết ngay những tồn tại, bất cập, hạn chế có tính cấp thiết để kiến nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết đề xử lý.
3. Trên cơ sở những bất cập, khó khăn, vướng mắc thực tiễn tổ chức thực hiện, với tinh thần vướng đâu sửa đó để phù hợp với thực tế nhằm thực hiện Luật Quy hoạch bảo đảm yêu cầu, chất lượng, trước mắt cần đề nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Nội dung Nghị quyết bao gồm việc điều chỉnh một số nội dung Luật Quy hoạch và các Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đà ban hành về công tác quy hoạch và cả các vấn đề cần ưu tiên giải quyết những vướng mắc hiện hữu, trong đó tập trung vào các vấn đề:
- Về tiến độ lập quy hoạch: Đánh giá tính khả thi về tiến độ lập quy hoạch theo quy định tại Nghị quyết số 41/2021/QH15 ngày 13 tháng 11 năm 2021 của Quốc hội, việc ảnh hưởng đến chất lượng quy hoạch, do đó cần đề xuất lùi tiến độ lập quy hoạch; đồng thời đề xuất những quy hoạch nào cần ưu tiên phải lập, hoàn thành sớm để phục vụ phát triển đất nước. Làm rõ việc lùi Quy hoạch tổng thể quốc gia không làm ảnh hưởng nhiều đến phát triển kinh tế - xã hội vì đã có Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; Kế hoạch 5 năm và Chiến lược 10 năm về phát triển kinh tế - xã hội.
- Về nội hàm của Quy hoạch tổng thể quốc gia: cần đánh giá khả năng thực hiện lập quy hoạch tổng thể quốc gia theo nội dung, danh mục dự án bản vẽ theo quy định; làm rõ việc lập quy hoạch tổng thể quốc gia là tổng hợp của các quy hoạch cấp dưới hay là đưa ra định hướng lớn để các quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh cụ thể hóa; từ đó, đề xuất điều chỉnh nội dung quy hoạch tổng thể quốc gia trong Luật Quy hoạch để bảo đảm tính khả thi.
- Mối quan hệ giữa các quy hoạch: Theo quy định “Quy hoạch tổng thể quốc gia là cơ sở để lập quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn trên cả nước”, cần đánh giá các vướng mắc khi quy hoạch cấp dưới phải điều chỉnh khi không phù hợp với quy hoạch cấp cao hơn; các khó khăn về quy trình, thủ tục để điều chỉnh quy hoạch đáp ứng thay đổi của thực tế, nhất là khi đang lập đồng thời các quy hoạch để đề xuất điều chỉnh mối quan hệ giữa các quy hoạch quy định tại tại Điều 6 và Điều 53 Luật Quy hoạch.
- Vấn đề tích hợp trong quy hoạch: Phân tích rõ nội hàm về tích hợp, nội dung và mức độ tích hợp của các loại quy hoạch, giữa quy hoạch cấp cao và cấp thấp; phương pháp tích hợp các các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật chuyên ngành tích hợp vào quy hoạch để bảo đảm thống nhất, khoa học, khả thi để đề xuất điều chỉnh một số quy định Luật Quy hoạch.
- Vấn đề lựa chọn tư vấn lập quy hoạch: Đề xuất điều chỉnh về tổ chức tư vấn lập quy hoạch quy định trong Luật Quy hoạch, trong đó, đề xuất bổ sung việc lựa chọn tư vấn lập quy hoạch theo hình thức chỉ định thầu để phù hợp với thực tế về số lượng, năng lực các cơ quan, tổ chức tư vấn hiện nay.
- Nguồn vốn cho việc lập quy hoạch: Đề xuất điều chỉnh quy định về chi phí cho hoạt động quy hoạch trong Luật Quy hoạch, trong đó cho phép sử dụng nguồn vốn chi thường xuyên và nguồn vốn xã hội hóa để đẩy nhanh tiến độ lập quy hoạch.
- Nghiên cứu, đề xuất bổ sung việc điều chỉnh cục bộ, phạm vi, quy trình, thủ tục điều chỉnh cục bộ quy hoạch để giải quyết các vấn đề vướng mắc trong thực tế, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Đánh giá tác động việc bãi bỏ các quy hoạch về đầu tư phát triển hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm cụ thể, ấn định khối lượng, số lượng hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm được sản xuất, tiêu thụ đã được quyết định hoặc phê duyệt theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 59. Đây là các quy hoạch quan trọng như một định hướng cho công tác quản lý ngành (như quy hoạch phát triển ngành xi măng, ngành thép,...), cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi cho phù hợp.
- Cải cách hành chính trong quy hoạch: cần đánh giá quy định về các quy trình, thủ tục hành chính trong công tác quy hoạch, đề xuất giải pháp để đơn giản hóa thủ tục hành chính để đẩy nhanh tiến độ lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện các quy hoạch để đề xuất sửa đổi.
- Vấn đề kế thừa, chuyển tiếp: Để kế thừa, tiếp tục thực hiện các quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh đã phê duyệt được tiếp tục thực hiện, điều chỉnh cho đến khi các quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh theo quy định của Luật Quy hoạch được phê duyệt nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước để đề xuất sửa đổi quy định tại Điều 59 Luật Quy hoạch.
- Nghiên cứu, đề xuất việc phân cấp, phân quyền trong việc thẩm định, phê duyệt các loại quy hoạch trên nguyên tắc phân cấp, phân quyền mạnh cho các Bộ, địa phương đi đôi với các tiêu chí, tiêu chuẩn cho rõ và cơ chế kiểm tra, giám sát bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước ở mọi cấp, mọi ngành.
4. Quốc hội dã ban hành Nghị quyết số 19/2021/QH15 ngày 27 tháng 7 năm 2021 về thành lập Đoàn giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành”. Việc giám sát tối cao việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch của Quốc hội là cần thiết để thực hiện tốt Luật Quy hoạch của cả cơ quan lập pháp và cơ quan thi hành pháp luật.
Theo yêu cầu của Đoàn giám sát, tại Công văn số 7792/VPCP-CN ngày 25 tháng 10 năm 2021, số 1731/VPCP-CN ngày 21 tháng 3 năm 2022 và số 2037/VPCP-CN ngày 01 tháng 4 năm 2022, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành. Trên cơ sở báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thường trực Chính phủ yêu cầu:
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương hoàn thiện báo cáo, làm rõ những vấn đề xin ý kiến, xây dựng dự thảo Nghị quyết của Chính phủ và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, trình Chính phủ tại phiên họp Chính phủ chuyên đề vào ngày 19 tháng 4 năm 2022 để xin ý kiến Chính phủ những nội dung trình Quốc hội ban hành Nghị quyết. Đề nghị các đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ tập trung nghiên cứu, có ý kiến góp ý cho báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại cuộc họp Chính phủ.
- Các Bộ, cơ quan liên quan chủ động rà soát lại các quy hoạch có liên quan, trao đổi thẳng thắn, nghiêm túc, thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trên tinh thần nói thẳng, nói thật, góp ý khách quan để hoàn thiện dự thảo Nghị quyết.
5. Giao Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành chỉ đạo hoàn thiện Báo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành.
Văn phòng Chính phủ xin thông báo để các bộ, cơ quan biết, thực hiện./.
|
KT. BỘ TRƯỞNG,
CHỦ NHIỆM |
(Không có nội dung)
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
(Không có nội dung)
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
-
Ban hành: {{m.News_Dates_Date}} Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}} Tình trạng: {{m.TinhTrang}} Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}} Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}}Tình trạng: {{m.TinhTrang}}Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
-
Ban hành: {{m.News_Dates_Date}} Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}} Tình trạng: {{m.TinhTrang}} Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}} Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}}Tình trạng: {{m.TinhTrang}}Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây