Luật Đất đai 2024

Quyết định 201-CP năm 1980 về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước do Hội Đồng Chính phủ ban hành

Số hiệu 201-CP
Cơ quan ban hành Hội đồng Chính phủ
Ngày ban hành 01/07/1980
Ngày công báo Đã biết
Lĩnh vực Bất động sản
Loại văn bản Quyết định
Người ký Tố Hữu
Ngày có hiệu lực Đã biết
Số công báo Đã biết
Tình trạng Đã biết

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 201-CP

Hà Nội, ngày 01 tháng 07 năm 1980

QUYẾT ĐỊNH

SỐ 201-CP NGÀY 01-7-1980 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC THỐNG NHẤT QUẢN LÝ RUỘNG ĐẤT VÀ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ RUỘNG ĐẤT TRONG CẢ NƯỚC

Ruộng đất là tài nguyên vô cùng quý giá, là kết quả của quá trình đấu tranh và lao động hàng nghìn năm nay của nhân dân ta, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì thay thế được của sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, là nền tảng để phân bố và xây dựng các ngành kinh tế quốc dân, các khu dân cư, các công trình phục vụ đời sống và sự nghiệp phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng.

Mấy năm gần đây, việc quản lý và sử dụng ruộng đất đã có nhiều tiến bộ, nhưng những hiện tượng tiêu cực như lấn chiếm ruộng đất, bỏ hoang hóa ruộng đất, sử dụng không đúng mục đích, màu mỡ ruộng đất không được bảo vệ… vẫn còn tiếp tục xảy ra mặc dầu Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản và đã thi hành một số biện pháp về việc tăng cường công tác quản lý ruộng đất.

Để đưa việc quản lý và sử dụng ruộng đấ vào quy chế chặt chẽ, nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức và mọi người trong việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm với hiệu quả cao tất cả các loại ruộng đất, nhằm phát triển sản xuất, bảo vệ đất đai màu mỡ, bảo vệ môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lại sản xuất trong cả nước theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, Hội đồng Chính phủ quy định việc thống quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước như sau:

I- THỐNG NHẤT QUẢN LÝ RUỘNG ĐẤT TRONG CẢ NƯỚC:

1) Toàn bộ ruộng đất trong cả nước đều do Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch và kế hoạch chung nhằm bảo đảm ruộng đất được sử dụng hợp lý, tiết kiệm và phát triển theo hướng đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

2) Quản lý Nhà nước đối với ruộng đất bao gồm các nội dung sau đây:

- Điều tra, khảo sát và phân bố các loại đất.

- Thống kê, đăng ký đất.

- Quy hoạch sử dụng đất.

- Giao đất, thu hồi đất, trưng dụng đất.

- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý sử dụng đất.

- Giải quyết các tranh chấp về đất.

- Quy định các chế độ, thể lệ để quản lý việc sử dụng đất và tổ chức việc thực hiện các chế độ, thể lệ ấy.

3) Hội đồng Chính phủ thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với toàn bộ ruộng đất trong cả nước.

Ủy ban nhân dân các cấp được Hội đồng Chính phủ ủy nhiệm thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với toàn bộ ruộng đất trong địa phương (kể cả các loại đất đã giao cho các cơ quan Trung ương) theo các chế độ, thể lệ thống nhất của Nhà nước và sự hướng dẫn của cấp trên.

4) Tổng cục Quản lý ruộng đất và các cơ quan chuyên trách quản lý ruộng đất của Nhà nước ở địa phương có trách nhiệm giúp Hội đồng Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với toàn bộ ruộng đất trong cả nước và từng địa phương.

5) Các cơ quan, đơn vị sử dụng ruộng đất ở các ngành, các cấp, kể cả các hợp tác xã có trách nhiệm tổ chức việc sử dụng ruộng đất đã được giao đạt hiệu quả kinh tế cao và theo đúng các quy định của Nhà nước.

II- PHÂN LOẠI RUỘNG ĐẤT

Toàn bộ ruộng đất được phân thành bốn loại sau đây:

1. Đất nông nghiệp là đất được xác định dùng cho các lĩnh vực hoạt động của sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi hoặc nghiên cứu, thí nghiệm về trồng trọt hoặc chăn nuôi.

2. Đất lâm nghiệp là đất được xác định dùng cho các lĩnh vực hoạt động của sản xuất lâm nghiệp, như khai thác rừng, trồng rừng, khoanh nuôi rừng, tu bổ cải tạo rừng… và dùng để phòng hộ đầu nguồn, bảo vệ đất, bảo vệ môi trường.

3. Đất chuyên dùng khác là đất được xác định dùng vào các mục đích không phải là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, bao gồm đất ở, đất xây dựng các công trình thủy lợi, công nghiệp, giao thông vận tải, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, khoa học, y tế, nghỉ mát, du lịch, kể cả các công trình phục vụ cho nông nghiệp và lâm nghiệp, v.v…

4. Đất chưa sử dụng là đất chưa phân bố vào mục đích nào hoặc chỉ mới tạm thời phân phối để sử dụng trong một thời gian ngắn.

Tổ chức phân loại đất, thủ tục phân loại và chuyển từ loại này sang loại khác do Hội đồng Chính phủ quy định căn cứ vào tình hình thực tế ruộng đất và nhu cầu phát triển nền kinh tế quốc dân.

III- QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG ĐẤT

1. Mọi tổ chức hay cá nhân sử dụng các loại đất (dưới đây gọi chung là người sử dụng đất) có các quyền sau đây:

a) Tiến hành trên đất mình sử dụng mọi hoạt động hợp pháp có lợi cho việc thực hiện mục đích sử dụng đã được quy định và được hưởng những hoa lợi do lao động của mình làm ra.

b) Được sử dụng các nguồn nước có ở đất đó theo quy định của pháp luật.

c) Được hưởng lợi ích do những công trình công cộng về bảo vệ đất, cải tạo đất mang lại.

d) Được Nhà nước bảo hộ mọi quyền lợi hợp pháp trên diện tích đã được công nhận và được giúp đỡ trong việc bồi dưỡng đất theo khả năng của Nhà nước.

2. Người sử dụng đất có các trách nhiệm chung sau đây:

a) Phải theo đúng mục đích, quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan có thẩm quyền xác định, sử dụng đúng diện tích, ranh giới, thời hạn hoặc các điều kiện khác do cơ quan có thẩm quyền quy định khi giao đất.

b) Phải tuân theo các thể lệ, chế độ, quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn đã được cơ quan có thẩm quyền quy định về việc sử dụng từng loại đất.

c) Nếu đất không sử dụng hoặc không sử dụng hết đất thì người sử dụng đất phải trả lại phần đất không sử dụng cho Nhà nước. Đối với đất trước kia thuộc sở hữu cá thể hợp pháp, khi người chủ đất không sử dụng nữa (hoặc không có người thừa kế hợp pháp sử dụng) thì Ủy ban nhân dân huyện quyết định việc sử dụng theo đề nghị của Ủy ban nhân dân xã.

d) Không được phát canh thu tô, cho thuê, cầm cố hoặc bán nhượng đất dưới bất cứ hình thức nào; không được dùng đất để thu những khoản lợi không do lao động mà có, trừ trường hợp đặc biệt do chính sách Nhà nước quy định.

đ) Trong khi sử dụng đất phải bảo đảm không gây ra những việc có hại cho lợi ích chung hoặc có hại cho người sử dụng đất lân cận. Trường hợp không tránh được thì phải hết sức hạn chế và được cơ quan có thẩm quyền cho phép sau khi đã trưng cầu ý kiến của các đương sự.

e) Phải thi hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong việc phân bố lại đất vì lợi ích chung của Nhà nước.

3. Ngoài những trách nhiệm chung nói trên người sử dụng đất còn có những trách nhiệm riêng về việc sử dụng từng loại đất nói dưới đây:

Đối với việc sử dụng đất nông nghiệp:

a) Phải tận dụng từng tấc đất vào sản xuất nông nghiệp, không được bỏ hoang, bỏ hóa, không được dùng ruộng đất nông nghiệp vào các mục đích phi nông nghiệp nếu không được phép của cơ quan có thẩm quyền.

b) Phải thực hiện các biện pháp chuyên canh, thâm canh, xen canh, luân canh tăng vụ và các biện pháp tổ chức - kỹ thuật khác đã được cơ quan quản lý nông nghiệp quy định để sử dụng đất với hiệu quả kinh tế cao, để bảo vệ cải tạo đất và tăng độ màu mỡ của đất. Nếu còn có đất hoang thì phải có kế hoạch khai hoang mở rộng diện tích đất canh tác.

c) Phải nộp thuế, giao nộp hoặc bán sản phẩm cho Nhà nước theo chế độ Nhà nước quy định.

Đối với việc sử dụng đất lâm nghiệp:

a) Phải khai thác rừng, trồng rừng, bảo vệ, tu bổ, cải tạo rừng theo đúng quy định và kế hoạch của Nhà nước.

b) Phải thực hiện các biện pháp tổ chức - kỹ thuật, các chế độ quản lý rừng và đất lâm nghiệp theo đúng quy định của cơ quan quản lý lâm nghiệp để bảo vệc rừng và bảo vệ đất lâm nghiệp.

c) Phải giao nộp hoặc bán sản phẩm cho Nhà nước và làm các nghĩa vụ khác theo chế độ Nhà nước quy định.

Đối với việc sử dụng đất chuyên dùng khác:

a) Phải thực hiện các biện pháp cần thiết để tránh gây khó khăn, trở ngại cho sản xuất và đời sống của nhân dân chung quanh.

b) Nếu là đất giao để sử dụng có thời hạn thì sau khi sử dụng xong phải trả lại đất cho cơ quan giao đất. Nếu trong khi tạm sử dụng cần đào phá đất thành thùng đấu, hào rãnh… sau khi sử dụng xong phải san lấp lại để có thể sử dụng đất vào việc khác.

Nếu đất giao sử dụng có thời hạn là đất nông nghiệp thì trước khi sử dụng phải hớt lớp đất màu để sau này san lấp trả cho sản xuất nông nghiệp và sau khi sử dụng xong phải làm cho đất trở lại trạng thái canh tác được.

c) Những cơ quan, đơn vị được giao đất nông nghiệp để sử dụng vào một mục đích không phải là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, trước khi nhận đất phải nộp một khoản tiền vào ngân sách nhà nước do Nhà nước quy định tùy theo chất lượng các hạng đất để mở rộng diện tích đất nông nghiệp bù vào số diện tích đất nông nghiệp bị giảm bớt.

d) Những cơ quan, đơn vị được giao đất nông nghiệp để sử dụng vào một mục đích khác nếu chưa kịp sử dụng cũng không được để hoang hóa quá 6 tháng. Bất cứ khoảnh đất nào quá 100m2 trong diện tích được giao chưa dùng đến ngay và để hoang hóa thì cơ quan, đơn vị được giao đất phải báo cho chính quyền địa phương để giao khoảnh đất đó cho người khác gieo trồng cho đến khi thực sự cần đến diện tích đó.

IV- ĐĂNG KÝ, THỐNG KÊ ĐẤT

1. Để thực hiện thống nhất quản lý ruộng đất, tất cả các tổ chức và cá nhân sử dụng đất đều phải khai báo chính xác và đăng ký các loại ruộng đất mình sử dụng vào sổ địa chính của Nhà nước, Ủy ban nhân dân xã phải kiểm tra việc khai báo này.

2. Sau khi kê khai và đăng ký, các tổ chức hay cá nhân nào được xác nhận là người quản lý sử dụng hợp pháp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

3. Đối với những đất bị sót chưa giao cho ai sử dụng thì Ủy ban nhân dân xã sở tại có nhiệm vụ phát hiện vào báo ngay cho cơ quan quản lý ruộng đất cấp huyện để thống kê và đăng ký vào sổ địa chính.

4. Tổng cục Quản lý ruộng đất có trách nhiệm nghiên cứu và trình Chính phủ ban hành những quy định cụ thể về việc đăng ký thống kê ruộng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Mẫu bản đồ, sổ địa chính và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Tổng cục Quản lý ruộng đất quy định và dùng thống nhất trong cả nước.

5. Sau khi kê khai, đăng ký, thống kê ruộng đất, tất cả các cơ quan Nhà nước và nhân dân, mỗi khi cần thay đổi về hình thể ruộng đất, về mục đích sử dụng ruộng đất hoặc quyền sử dụng ruộng đất, đều phải làm đúng thủ tục khai báo theo quy định của Nhà nước.

Trước mắt, việc đào ao, vượt thổ để làm nhà, hoặc chuyển đất nông nghiệp, nhất là đất trồng cây lương thực sang làm việc khác, bất cứ đất ấy thuộc quyền sử dụng của ai và với diện tích bao nhiêu, cũng phải được Ủy ban nhân dân huyện căn cứ vào kế hoạch, quy hoạch đã được xét duyệt và tình hình cụ thể về đất đai của địa phương, cho phép mới được thực hiện.

V- VIỆC GIAO ĐẤT VÀ THU HỒI ĐẤT

1. Nguyên tắc chung về việc giao đất để sử dụng:

Việc giao đất cho các đơn vị để sử dụng phải theo đúng các nguyên tắc sau:

a) Phải căn cứ vào quy hoạch (nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng, giao thông, thủy lợi) đã được cấp có thẩm quyền xét duyệt.

b) Hết sức tránh việc lấy đất nông nghiệp, nhất là đất trồng cây lương thực thực thẩm, cây công nghiệp, để dùng vào các mục đích không sản xuất nông nghiệp, trường hợp bất đắc dĩ phải lấy thì phải tìm mọi biện pháp triệt để tiết kiệm diện tích sử dụng, đồng thời không được để ảnh hưởng xấu đến màu mỡ của đất chung quanh.

c) Phải làm theo đúng các thế hệ, chế độ quản lý ruộng đất và về giao đất.

2. Thẩm quyền về giao đất để sử dụng:

a) Việc giao đất nông nghiệp, đất thổ cư nông thôn và đô thị trên 2 héc ta hoặc phải di dân trên 20 hộ để lấy đất làm việc khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định; từ 2 héc ta trở xuống hoặc phải di dân từ 20 hộ trở xuống do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định.

Đối với nông trường, lâm trường, trạm, trại, công trình xây dựng…đã có nhiệm vụ thiết kết (trong đó nói rõ diện tích và vị trí địa điểm đất được sử dụng, được các cấp có thẩm quyền xét duyệt và các công trình theo tuyến (giao thông, thủy lợi…) đã có quy hoạch được cấp có thẩm quyền xét duyệt thì Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thực Trung ương căn cứ vào nhiệm vụ thiết kế và quy hoạch đó mà quyết định vào việc giao đất.

b) Trường hợp các xã lấy đất nông nghiệp để xây dựng các công trình của xã, của hợp tác xã (kể cả để khai thác đất làm gạch, ngói) hoặc làm nhà cho dân ở, thì Ủy ban nhân dân xã lập kế hoạch hàng năm, nếu diện tích cần thiết chung cho tất cả các công trình trong một năm từ 2 héc ta trở xuống do Ủy ban nhân dân huyện xét và trình Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố chuẩn y, trên 2 héc ta do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố xét và đề nghị Thủ tướng Chính phủ chuẩn y.

c) Việc giao đất đồi núi, đất hầm mỏ để sử dụng vào các mục đích chuyên dùng từ 10 héc ta trở lên do Thủ tướng Chính phủ quyết định, dưới 10 héc ta do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định.

d) Việc giao đất, giao rừng cho hợp tác xã kinh doanh nông nghiệp, lâm nghiệp do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện thực hiện theo đúng quyết định số 272/CP ngày 3-10-1977 của Hội đồng Chính phủ và Thông tư hướng dẫn thi hành số 20/TT-LB ngày 11-5-1978 của Liên Bộ Nông nghiệp – Lâm nghiệp.

Trường hợp phải phá rừng để lấy đất, dùng vào mục đích nông nghiệp hay chuyên dùng khác thì phải có thiết kế cụ thể do cơ quan có thẩm quyền duyệt đúng như quy định của pháp lệnh bảo vệ rừng, nghị quyết số 155-CP ngày 3-10-1973 của Hội đồng Chính phủ, chỉ thị số 137/TTg ngày 20-4-1979 của Thủ tướng Chính phủ, nếu phá rừng trên 20 héc ta do Hội đồng Chính phủ cho phép; từ 20 héc ta trở xuống do Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp cho phép.

đ) Việc giao đất để khai thác nguyên liệu, khoáng sản:

Căn cứ vào nhiệm vụ thiết kế và địa điểm khai thác được cấp có thẩm quyền phê chuẩn, cơ quan chủ quản công trình sẽ ký kết hợp đồng sử dụng đất có thời hạn với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, căn cứ vào hợp đồng nói trên, cơ quan quản lý ruộng đất tỉnh, thành phố sẽ giao đất từng đợt theo kế hoạch khai thác của cơ quan chủ quản công trình. Khai thác xong chỗ nào thì cơ quan chủ quản công trình phải trả lại chỗ đất ấy cho địa phương với trạng thái đất có thể dùng ngay vào sản xuất nông nghiệp hay vào mục đích khác.

e) Những quyết định về giao đất phải ghi rõ tên người hoặc cơ quan, tổ chức được phép sử dụng, diện tích, loại hạng, ranh giới khoảnh đất, mục đích và thời hạn sử dụng đất và những điều kiện đặc biệt khác nếu có.

3. Việc thu hồi đất:

a) Cấp nào có quyền giao đất thì cấp ấy có thẩm quyền thu hồi đất. Trường hợp cần thiết thì có thể trưng dụng đất. Trong trường hợp cần thiết, cấp có thẩm quyền có thể ủy nhiệm cho cơ quan quản lý ruộng đất thực hiện việc thu hồi đất sử dụng trái pháp luật.

b) Cơ quan có thẩm quyền quản lý ruộng đất có trách nhiệm thu hồi đất trong những trường hợp sau đây:

- Khi đã hết hạn sử dụng đất ghi trong giấy giao đất.

- Nếu đất bị sử dụng trái phép như tự ý chiếm dụng đất, sử dụng đất quá mức cho phép, hoặc cầm cố, mua bán trái phép v.v…

- Nếu người sử dụng đất vi phạm các quy định ở phần III trên đây.

- Để tổ chức lại sản xuất hoặc để phát triển kinh tế, văn hóa, quốc phòng theo kế hoạch của Nhà nước được chính quyền cấp tỉnh trở lên quyết định.

c) Nếu việc thu hồi không phải là do lỗi của người sử dụng đất hoặc bị trưng dụng đất thì giải quyết như sau:

- Trường hợp người có đất bị thu hồi hoặc bị trưng dụng cần phải có đất để sử dụng thì được cấp đất khác.

- Nếu trên khoảnh đất bị thu hồi hoặc bị trưng dụng có nhà cửa, công trình xây dựng khác, hoặc trồng cây lâu năm hoặc trồng cây ngắn ngày chưa kịp thu hoạch đã phải phá bỏ, thì được bồi thường thích đáng. Tổng cục Quản lý ruộng đất cùng Bộ Tài chính nghiên cứu trình Chính phủ quy định khoản tiền bồi thường này. Trong khi chờ văn bản quy định chung, thì Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tạm thời quy định cho địa phương.

4. Cơ quan quản lý ruộng đất các cấp có trách nhiệm trực tiếp giúp Hội đồng Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp trong việc quyết định giao đất, thu hồi đất, trưng dụng đất.

VI. KIỂM TRA, THANH TRA VIỆC CHẤP HÀNH CÁC CHẾ ĐỘ VỀ SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT

1. Cơ quan quản lý ruộng đất ở các cấp có trách nhiệm kiểm tra, thanh tra tình hình sử dụng ruộng đất trong phạm vi quản lý của mình.

2. Việc kiểm tra, thanh tra nhằm mục đích phát hiện, ngăn ngừa và xử lý các hiện tượng lãng phí ruộng đất (bỏ hoang, bỏ hóa, sử dụng không đầy đủ, không hợp lý đất được giao…), làm hư hại thoái hóa đất, lấn chiếm ruộng đất và mọi vi phạm khác trong việc sử dụng ruộng đất.

3. Cán bộ làm nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra sử dụng đất có quyền:

- Yêu cầu người sử dụng ruộng đất cung cấp các tài liệu có liên quan đến sử dụng ruộng đất.

- Làm biên bản và kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền các biện pháp cần thiết để khắc phục các vi phạm, xử lý người vi phạm và tăng cường công tác quản lý ruộng đất.

4. Nếu phát hiện có việc lấn chiếm ruộng đất, sử dụng ruộng đất không đúng mục đích được giao, vượt diện tích được giao hoặc những vi phạm nghiêm trọng khác, cơ quan quản lý ruộng đất có quyền ra quyết định tạm thời đình chỉ việc sử dụng ruộng đất (đình chỉ sử dụng toàn bộ hoặc một phần diện tích đất được sử dụng tùy theo mức độ vi phạm nghiêm trọng nhiều hay ít) hoặc quyết định thu hồi đất (nếu được ủy nhiệm).

VII- GIẢI QUYẾT CÁC VIỆC TRANH CHẤP VỀ RUỘNG ĐẤT

Thẩm quyền giải quyết các việc tranh chấp về ruộng đất được giải quyết như sau:

1) Các việc tranh chấp về ruộng đất giữa các cơ quan Nhà nước, các cơ sở quốc doanh, các hợp tác xã, các đoàn thể nhân dân (gọi tắt là cơ quan, tổ chức) với nhau đều do hệ thống cơ quan chấp hành của Nhà nước từ dưới lên trên giải quyết sau khi lấy ý kiến của cơ quan quản lý ruộng đất và của ngành chủ quản sử dụng ruộng đất đó.

a) Nếu việc tranh chấp xảy ra đối với ruộng đất nằm trong một huyện, thì Ủy ban nhân dân huyện đó xét và giải quyết. Nếu các bên đương sự thấy việc giải quyết chưa thỏa đáng thì có quyền đưa lên Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương xét và giải quyết.

Nếu việc tranh chấp xảy ra đối với ruộng đất nằm trong hai huyện thì Ủy ban nhân dân hai huyện đó cùng họp với nhau để giải quyết, nếu không nhất trí được thì đưa lên Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương xét và giải quyết.

b) Trường hợp là hai tỉnh khác nhau thì thành lập một Ủy ban hỗn hợp với thành phần ngang nhau (gồm 1 phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, đại diện cơ quan quản lý ruộng đất và các cơ quan có liên quan) để xét và giải quyết xong, báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ biết. Trường hợp không nhất trí thì trình lên Thủ tướng Chính phủ xét giải quyết.

2. Các vụ tranh chấp xảy ra giữa các công dân với nhau hoặc giữa một bên là cơ quan, tổ chức và một bên là công dân sẽ do Tòa án xét xử. Đối với các vụ tranh chấp trong nội bộ nhân dân với nhau, nhất là những việc tranh chấp có tinh thần điều chỉnh ruộng đất giữa các hộ với nhau (căn cứ vào nhân khẩu và diện tích bình quân đầu người) thì Ủy ban nhân dân xã bàn bạc với hợp tác xã hoặc nơi chưa có hợp tác xã thì bàn với nông hội để lãnh đạo nhân dân thương lượng với nhau trên tinh thần đoàn kết nhân nhượng và giúp đỡ lẫn nhau, giải quyết có lý có tình. Nếu Ủy ban nhân dân xã giải quyết không xong thì đưa lên Ủy ban nhân dân huyện, khi cần thiết lắm mới đưa ra Tòa án xét xử.

VIII- Thưởng, phạt

1. Các tổ chức và cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc bảo vệ đất, bồi bổ chất đất, mở rộng diện tích đất nông nghiệp (tăng vụ, khai hoang, phục hóa) hoặc sử dụng đất có hiệu quả cao thì được khen thưởng theo chế độ Nhà nước).

2. Người sử dụng ruộng đất vi phạm những điều quy định trong quyết định này, tùy theo mức độ vi phạm, bị xử phạt như sau:

- Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10 đồng đến 200 đồng. Ủy ban nhân dân huyện có quyền cảnh cáo và xử phạt từ 10 đồng đến 50 đồng, Ủy ban nhân dân tỉnh có quyền cảnh cáo và xử phạt từ 50 đồng đến 200 đồng.

- Buộc phải sửa chữa những hậu quả và bồi thường những thiệt hại do việc vi phạm gây ra. Cơ quan quyết định xử phạt có quyền quyết định việc này.

- Bị thu hồi ruộng đất. Thẩm quyền thu hồi ruộng đất thuộc các cơ quan có thẩm quyền nói tại điểm 3 phần V của quyết định này.

Nếu người sử dụng đất là cơ quan, tổ chức, thì ngoài việc cơ quan, tổ chức bị xử phạt, người chịu trách nhiệm chủ yếu trước cơ quan, tổ chức về những vi phạm đó có thể bị thi hành kỷ luật về hành chính hoặc có thể phải chịu một phần số tiền mà cơ quan, tổ chức phải chịu phạt.

3. Thủ tướng và cán bộ, nhân viên các cơ quan có trách nhiệm quản lý ruộng đất nếu vi phạm các nguyên tắc, chế độ đã quy định về việc giao đất, thu hồi đất, trưng dụng đất thì tùy theo mức độ vi phạm và tác hại gây ra có thể bị thi hành kỷ luật từ khiển trách, cảnh cáo đến hạ tầng công tác, cách chức hoặc buộc thôi việc.

4. Người nào lấn chiếm ruộng đất của người khác đã bị xử phạt hành chính mà cố tình tái phạm hoặc người nào cố ý phá hoại các công trình bảo vệ, cải tạo đất, gây tổn hại nghiêm trọng đến đất đai, lợi dụng chức vụ để giao đất trái phép, nhằm mưu lợi ích riêng, cố ý ngăn cản việc thanh tra, điều tra để xử lý các vụ vi phạm hoặc cố ý bao che người vi phạm, thì bị truy tố trước Tòa án và bị xử phạt theo luật hình sự hiện hành.

IX- TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Quyết định này có hiệu lực bắt buộc thi hành kể từ ngày ký. Đối với những sai phạm xảy ra trước ngày ban hành quyết định này Ủy ban nhân dân các cấp cũng phải xem xét và có biện pháp giải quyết, Tổng cục Quản lý ruộng đất căn cứ vào quyết định này và các văn bản hiện hành của Nhà nước về Quản lý ruộng đất hướng dẫn cho các Ủy ban nhân dân các cấp cách giải quyết đối với các trường hợp nói trên.

2. Tổng Cục trưởng Tổng cục Quản lý ruộng đất, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Thủ trưởng các ngành có liên quan ở Trung ương trong phạm vi chức năng của mình chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.

3. Những điều quy định trước đây trái với quyết định này đều bãi bỏ.

T/M HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
K/T THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG




Tố Hữu

99
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tải về Quyết định 201-CP năm 1980 về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước do Hội Đồng Chính phủ ban hành
Tải văn bản gốc Quyết định 201-CP năm 1980 về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước do Hội Đồng Chính phủ ban hành
Chưa có văn bản song ngữ
Văn bản được hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản được hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản bị sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản bị đính chính - [0]
[...]
Văn bản bị thay thế - [0]
[...]
Văn bản được dẫn chiếu - [0]
[...]
Văn bản được căn cứ - [0]
[...]
Văn bản liên quan ngôn ngữ - [1]
[...]
Văn bản đang xem
Quyết định 201-CP năm 1980 về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước do Hội Đồng Chính phủ ban hành
Số hiệu: 201-CP
Loại văn bản: Quyết định
Lĩnh vực, ngành: Bất động sản
Nơi ban hành: Hội đồng Chính phủ
Người ký: Tố Hữu
Ngày ban hành: 01/07/1980
Ngày hiệu lực: Đã biết
Ngày đăng: Đã biết
Số công báo: Đã biết
Tình trạng: Đã biết
Văn bản liên quan cùng nội dung - [0]
[...]
Văn bản hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản đính chính - [0]
[...]
Văn bản thay thế - [0]
[...]
[...] Đăng nhập tài khoản TVPL Basic hoặc TVPL Pro để xem toàn bộ lược đồ văn bản
Việc quản lý đất lâm nghiệp được hướng dẫn bởi Thông tư 37-LN/KL-1986 có hiệu lực từ ngày 11/01/1987
Pháp lệnh quy định việc bảo vệ rừng đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 6-9-1972 và Quyết định số 201-CP ngày 1-7-1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước đã đề cập một số nguyên tắc lớn về quản lý rừng. Trên cơ sở tổng sơ đồ phân bố lao động sản xuất toàn quốc và theo đề nghị của Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, Bộ Lâm nghiệp đã lần lượt phân công quản lý rừng và đất lâm nghiệp cho các địa phương. Với chức năng quản lý ngành, Bộ Lâm nghiệp hướng dẫn cụ thể về việc thống nhất quản lý và tăng cường công tác quản lý rừng và đất lâm nghiệp trong cả nước như sau:

1. VỀ VIỆC PHÂN CÔNG, PHÂN CẤP QUẢN LÝ.

Đứng trước tình trạng tổ chức rừng và quản lý kinh doanh rừng không hợp lý, việc quản lý Nhà nước về rừng bị trì trệ, buông lỏng, rừng đã và đang suy thoái nghiêm trọng. Điều quan trọng bậc nhất là phải tổ chức lại toàn bộ rừng và đất lâm nghiệp đã giao cho ngành Lâm nghiệp kinh doanh, trên cơ sở ấy để phân định trách nhiệm quản lý cụ thể của 4 cấp quản lý Nhà nước là Trung ương, tỉnh, huyện, xã.

Căn cứ vào tài liệu điều tra tài nguyên rừng công bố năm 1983, Bộ tiến hành giao toàn bộ diện tích các loại rừng và đất lâm nghiệp, trữ lượng của mỗi loại rừng cùng với bản đồ hiện trạng rừng để Uỷ ban nhân dân các tỉnh tiến hành việc tổ chức quản lý rừng tại địa phương mình theo chế độ, chính sách, quy hoạch, kế hoạch và pháp luật của Nhà nước.

- Các Sở Lâm nghiệp căn cứ vào tài liệu nói trên xúc tiến việc làm thủ tục giúp Uỷ ban Nhân dân tỉnh phân cấp cho Uỷ ban Nhân dân huyện và giúp cho Uỷ ban Nhân dân huyện phân cấp cho Uỷ ban Nhân dân xã nơi có rừng để thực hiện việc quản lý rừng và đất lâm nghiệp theo quy định của Nhà nước, hướng dẫn của Bộ Lâm nghiệp và chỉ đạo của Uỷ ban Nhân dân tỉnh.

- Tiến hành việc giao đất giao rừng cho các Liên hiệp lâm - nông - công nghiệp, lâm trường, hợp tác xã, các cơ quan, đơn vị để quản lý kinh doanh. Từ nay đến năm 1990 toàn bộ rừng được quản lý kinh doanh trên cơ sở có phương án điều chế cụ thể, có hồ sơ quản lý rõ ràng, đưa sản xuất vào thế ổn định toàn diện.

- Đối với rừng và đất lâm nghiệp được giao cho Liên hiệp lâm - nông - công nghiệp, lâm trường, các khu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, các khu rừng giống, các trại nghiên cứu trực thuộc Bộ Lâm nghiệp thì do Bộ phân giao cho các đơn vị này quản lý, kinh doanh. Chính quyền địa phương thực hiện chức năng quản lý Nhà nước (giám sát, kiểm tra, giúp đỡ...) như đối với các đơn vị kinh tế Trung ưong đóng tại địa phương, theo đúng quy định của Hội đồng Bộ trưởng về việc này.

2. VỀ QUẢN LÝ TRÊN CƠ SỞ 3 LOẠI RỪNG.

Trước khi tiến hành phân cấp, phân giao rừng và đất lâm nghiệp cho các đơn vị tổ chức quản lý kinh doanh nói trên, Sở Lâm nghiệp tham mưu cho tỉnh dự kiến phân rừng thành 3 loại theo mục đích sử dụng cho từng đơn vị để thực hiện việc quản lý theo quy chế của 3 loại rừng đó.

a) Rừng đặc dụng: Bao gồm các khu rừng để:

- Bảo tồn nguồn gen động vật và thực vật rừng.

- Bảo tồn các khu rừng có giá trị cảnh quan, văn hoá, lịch sử, bảo vệ sức khỏe,

- Bảo tồn hệ sinh thái nguyên thuỷ, các sinh cảnh đặc biệt,

- Phục vụ nghiên cứu khoa học, giáo dục, đào tạo.

b) Rừng phòng hộ: Bao gồm các khu rừng bảo vệ nguồn nước, điều tiết dòng chảy, hạn chế xói mòn, rửa trôi, lũ lụt, hạn hán, phòng chống gió bão, bảo vệ môi trường, cụ thể:

- Rừng phòng hộ đầu nguồn,

- Rừng chắn cát bay ven biển,

- Rừng chắn sóng, bảo vệ đê biển, đê sông cố định đất mới bồi lắng.

c) Rừng sản xuất: Bao gồm toàn bộ rừng và đất rừng giành cho việc sản xuất ra các loại lâm sản, đặc sản, cụ thể:

- Rừng sản xuất gỗ lớn,

- Rừng sản xuất gỗ nhỏ (nguyên liệu giấy, mỏ, củi...),

- Rừng sản xuất tre nứa,

- Rừng sản xuất sản phẩm đặc sản, dược liệu.

Trên cơ sở 3 loại rừng nói trên sẽ được quản lý theo quy chế của Bộ Lâm nghiệp ban hành là:

- Quy chế xây dựng quản lý sử dụng rừng đặc dụng.

- Quy chế xây dựng quản lý kinh doanh rừng phòng hộ.

- Quy chế xây dựng quản lý kinh doanh rừng sản xuất.

3. VỀ XÂY DỰNG TỔ CHỨC RỪNG.

Do đối tượng sản xuất lâm nghiệp quá rộng, để tạo thuận lợi cho việc quản lý bảo vệ tài nguyên rừng, toàn bộ diện tích rừng phải được phân chia thành tiểu khu:

Tiểu khu là đơn vị cơ bản để quản lý bảo vệ rừng có diện tích bình quân 1.000 hécta được phân chia nhằm tạo điều kiện cho việc quản lý kỹ thuật, quản lý quá trình sản xuất, khai thác, tu bổ, trồng rừng, cải tạo, bảo vệ rừng.

Việc phân chia tiểu khu được tiến hành trên toàn bộ đất rừng và đất lâm nghiệp, trên địa bàn huyện và tỉnh. Việc đánh số tiểu khu được tiến hành trọn vẹn trong huyện và nối tiếp từ huyện này sang huyện khác trong phạm vi một tỉnh, theo nguyên tắc từ trên xuống dưới, từ trái sang phải rồi từ phải sang trái.

Trong khu vực lâm trường có nhiều tiểu khu thì cứ 4 đến 5 tiểu khu thành 1 phân trường, có diện tích từ 4000 - 5000 hécta, phân trường là cấp quản lý rừng đồng thời là cấp quản lý kế hoạch sản xuất trực thuộc lâm trường.

Nói tóm lại rừng và đất lâm nghiệp trong 1 lâm trường có diện tích bình quân 20.000 hécta phải tổ chức thành phân trường, tiểu khu, khoảnh, lô.

Đến năm 1988 tất cả các lâm trường trong cả nước phải xây dựng xong tổ chức rừng để đưa vào quản lý.

4. VỀ TỔ CHỨC QUẢN LÝ.

Hệ thống tổ chức quản lý rừng ở các lâm trường được hình thành theo 3 cấp:

- Tiểu khu rừng,

- Phân trường,

- Lâm trường.

Do đó ở các tiểu khu rừng phải bố trí tiểu khu trưởng có trình độ trung cấp hoặc cán bộ quản lý bảo vệ rừng lâu năm. Phân trường phải bố trí quản đốc phân trường có trình độ kỹ sư hoặc trung cấp lâu năm. Lâm trường phải có phòng quản lý bảo vệ rừng giúp Giám đốc thực hiện công tác quản lý rừng.

Biên chế kiểm lâm nhân dân chuyển một bộ phận sang lâm trường để làm công tác quản lý bảo về rừng, phải được bố trí tại phòng quản lý bảo vệ rừng, hoặc bố trí ở phân trưởng, tiểu khu trường, tuyệt đối không bỏ trống tổ chức quản lý rừng cơ sở.

Bắt đầu từ năm 1987, chỉ mở cửa rừng cho khai thác ở những tiểu khu nào đã bố trí tiểu khu trưởng. Các hạt lâm nghiệp kiểm lâm nhân dân, Chi cục kiểm lâm nhân dân được quyền lâm biên bản và ra lệnh đình chỉ khai thác gỗ ở nơi khác thác không có tiểu khu trưởng, tuy nơi đó đã có thiết kế khai thác và được phê duyệt.

5. VIỆC QUẢN LÝ CÁC KHU RỪNG ĐẶC DỤNG, RỪNG PHÒNG HỘ:

Tuỳ theo quy mô và tầm quan trọng của các khu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ mà thành lập các ban quản lý, tổ quản lý để trực tiếp quản lý chặt chẽ hai loại rừng này.

Cũng tuỳ theo quy mô và tầm quan trọng của mỗi khu rừng đặc dụng, phòng hộ mà ban quản lý, tổ quản lý có thể trực thuộc Bộ Lâm nghiệp, Sở Lâm nghiệp (Chi cục kiểm lâm nhân dân) hoặc trực thuộc hạt lâm nghiụêp - Kiểm lâm nhân dân. Nếu khu vực rừng này nằm trong liên hiệp, lâm trường thì trực thuộc vào đơn vị này quản lý.

6. VẤN ĐỀ QUẢN LÝ BẢO VỆ VỐN RỪNG.

Khi hoàn thành việc phân cấp, phân giao rừng và đất rừng cho các liên hiệp, lâm trường, hợp tác xã, các cơ quan, đơn vị để quản lý kinh doanh, tức là Nhà nước đã giao một vốn rừng cụ thể làm tư liệu sản xuất kinh doanh rừng.

Các liên hiệp, lâm trường, hợp tác xã và các cơ quan, đơn vị nói trên có nhiệm vụ quản lý, bảo vệ, xây dựng, phát triển vốn rừng đó theo đúng quy hoạch, kế hoạch và pháp luật của Nhà nước về lâm nghiệp.

Do đó thủ trưởng các đơn vị được giao đất giao rừng phải:

- Nắm chắc vị trí, phạm vi, diện tích của từng loại rừng và đất lâm nghiệp.

- Xác định tổng trữ lượng gỗ theo nhóm gỗ, theo cấp đường kính và trữ lượng một số lâm sản chủ yếu khác.

- Kế hoạch quản lý, kinh doanh rừng hàng năm của lâm trường, hợp tác xã, cơ quan, đơn vị.

- Thực hiện việc đăng ký vốn rừng và báo cáo diễn biến vốn rừng hàng năm tại cơ quan quản lý cấp trên. Uỷ ban Nhân dân huyện, Sở Lâm nghiệp, Bộ Lâm nghiệp.

Sau khi đã xác định được vốn rừng cụ thể của đơn vị mình như lâm trường, cơ quan, đơn vị, hợp tác xã và đã đăng ký theo đúng chế độ quy định thì cần phải mở sổ quản lý kinh doanh để theo dõi chặt chẽ quá trình sử dụng vốn rừng và các diễn biến khác về vốn rừng từ tiểu khu, phân trường, lâm trường. Trường hợp thay đổi Thủ trưởng đơn vị, thì nội dung bàn giao chính là diện tích và trữ lượng rừng của đơn vị do mình phụ trách cho người đến nhận nhiệm vụ mới.

Như vậy, từ này trở đi các Liên hiệp lâm - nông - công nghiệp, lâm trường, hợp tác xã và các đơn vị kinh tế cơ sở được chọn quyền tự chủ kinh doanh sản xuất, Uỷ ban Nhân dân các cấp và cơ quan lâm nghiệp cấp trên sẽ giám sát, đánh giá hiệu quả kinh doanh trên 3 mặt:

- Khối lượng lâm, nông, thổ sản được tạo ra trên một đơn vị hécta rừng kinh doanh;

- Số lao động thu hút trên một đơn vị hécta rừng;

- Vốn tích luỹ cho ngân sách trên một đơn vị hécta.

Việc thực hiện phân công, phân cấp nhằm thống nhất quản lý và tăng cường công tác quản lý rừng và đất lâm nghiệp là nhiệm vụ hết sức cấp bách của ngành Lâm nghiệp trong giai đoạn mới, nó quyết định sự sinh tồn của rừng và nghề rừng, có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế quốc dân.

Trong quá trình thực hiện Thông tư nếu gặp khó khăn cần phản ánh kịp thời để Bộ nghiên cứu giải quyết.

Xem nội dung VB
II- PHÂN LOẠI RUỘNG ĐẤT

Toàn bộ ruộng đất được phân thành bốn loại sau đây:
...
2. Đất lâm nghiệp là đất được xác định dùng cho các lĩnh vực hoạt động của sản xuất lâm nghiệp, như khai thác rừng, trồng rừng, khoanh nuôi rừng, tu bổ cải tạo rừng… và dùng để phòng hộ đầu nguồn, bảo vệ đất, bảo vệ môi trường.
Việc quản lý đất lâm nghiệp được hướng dẫn bởi Thông tư 37-LN/KL-1986 có hiệu lực từ ngày 11/01/1987
Giải quyết các trường hợp sử dụng ruộng đất không hợp pháp, không hợp lý được hướng dẫn bởi Thông tư 55/ĐKTK-1981 có hiệu lực từ ngày 20/11/1981 (VB hết hiệu lực: 04/05/2000)
Căn cứ vào điểm 1, mục IV của Quyết định số 201-CPngày 1-7-1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước, Tổng cục Quản lý ruộng đất hướng dẫn cách giải quyết các trường hợp sử dụng ruộng đất không hợp pháp, không hợp lý phát hiện trong khi thực hiện công tác đăng ký thống kê ruộng đất và thanh tra sử dụng ruộng đất như sau:

I. TRƯỜNG HỢP CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC, XÍ NGHIỆP QUỐC DOANH SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT KHÔNG HỢP PHÁP, KHÔNG HỢP LÝ

1. Làm đúng thủ tục, lấy đúng diện tích, sử dụng đúng mục đích nhưng không tiết kiệm đất:

Giải quyết trường hợp này theo tinh thần điều 5 Nghị định 47-CP ngày 15-3-1977. Dùng đất xây dựng hợp lý và tiết kiệm từng mét vuông, cụ thể là:

- Nếu phần đất lãng phí có thể trả lại sản xuất nông nghiệp thì hoán lại ngay.

- Nếu đơn vị đó được phép xây dựng thêm thì bổ sung thiết kế mặt bằng.

- Hoặc bố trí thêm cơ quan khác đến đó sử dụng cho hết đất.

2. Làm đúng thủ tục, lấy đúng diện tích được cấp nhưng sử dụng không đúng mục đích đã quy định trong nhiệm vụ thiết kế:

- Mục C điều 21 Nghị định 47-CP quy định: "đất xin xây dựng vào mục đích nào, phải dùng đúng vào mục đích ấy, khi có sự thay đổi về mục đích dùng đất phải xin phép lại" Điều 6 Nghị định 47-CP và điều 9 Thông tri 224-CT/TW cũng nói rõ điều đó.

- Theo tinh thần điều bổ sung 1 của Chỉ thị 231-TTg ngày 24-4-1974: "đối với những ruộng đất đã được phép cấp để xây dựng cơ bản từ trước, nhưng chưa xây dựng hết phải trả cho sản xuất, không được dùng vào mục đích khác hoặc bỏ hoang hoá".

Đã xây dựng kiên cố và xét thấy đơn vị đang dùng thật cần thiết ở chỗ đó và sử dụng như vậy là tiết kiệm đất thì làm các thủ tục xin thay đổi mục đích sử dụng và phải được cấp có thẩm quyền duyệt y.

- Nếu dùng vào việc cho cán bộ, công nhân hoặc đoàn thể tăng gia cải thiện thì kiên quyết cắt trả lại cho nhà nước để dùng cho đúng chính sách.

3. Làm đúng thủ tục, sử dụng đúng mục đích nhưng lấy quá diện tích được phép:

Phần đất đơn vị lấy quá giấy phép coi như là lấn chiếm. Nghị định 47-CP quy định "... nay nghiêm cấm dùng đất để xây mà không có giấy phép hoặc tự do lấn chiếm bất hợp pháp".

Cách giải quyết:

- Trả lại phần đất lấy quá đó cho sản xuất.

- Nếu thấy rất cần thiết phải xin thêm diện tích, công trình mới hoàn thành được thì đơn vị xin bổ sung để hợp pháp hoá chỗ đất lấy thêm. Nếu cấp có thẩm quyền cho phép thì được sử dụng, nếu không cho rất khoát phải san trả lại cho sản xuất.

4. Tự do lấn chiếm:

Trường hợp này chỉ thỉ 213-TTg ngày 24-9-1974 của Thủ tướng Chính phủ đã ghi "đối với những đất của các nông trường các hợp tác xã nông nghiệp, các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước bị chiếm dụng trái phép thì cơ quan làm chủ ruộng đất phải thu hồi lại, phải quản lý, sử dụng đúng chế độ và chính sách của Nhà nước".

ĐơN vị sử dụng ruộng đát phi pháp phải san lấp như cũ trả lại cho sản xuất và bồi thường mọi tổn thất đối với sản xuất

5. Đơn vị lấy đất nhưng chưa thi công hoặc thi công nhưng sử dụng không hết, bỏ đất hoang:

Thi hành theo điểm b và d điều 21 và vận dụng điều 22 Nghị định 47-CP để xử lý.

Điều 21: b "đất cần thiết cho xây dựng công trình được duyệt cấp 1 lần nhưng khi dùng đất thì phải căn cứ vào kế hoạch xây dựng và tiến độ thi công, cần đến đâu lấy đến đó. Phần đất dự phòng để mở rộng công trình thì được cấp khi thực hiện việc mở rộng". Nơi nào cấp trái điều này và đất ấy chưa xây dựng đến thì tạm thời trả lại để sản xuất và chỉ cấp dần theo tiến độ thi công.

d. "6 tháng sau khi được cấp giấy phép dùng đất mà đất chưa dùng để xây dựng thì người được cấp không có quyền sử dụng nữa".

Trong trường hợp có lý do, phải xin gia hạn thêm. Cộng chung thời gian cấp đất và các kỳ xin gia hạn không quá 1 năm. Sau 1 năm muốn dùng đất đó để xây dụng thì phải xin phép lại.

6. Mượn đất để sơ tán, làm mặt bằng thi công rồi chiếm hữu luôn để xây dựng kiên cố ở lâu dài:

- Chỉ thị 231-TTg đã quy định: "Đối với ruộng đất bị lấn chiếm, những ruộng đất tạm mượn, tạm cấp làm cơ quan, kho tàng, nhà ở khi sơ tán trong chiến tranh phá hoại nay phải trả lại cho sản xuất nông nghiệp".

- Nếu xét thấy thật cần thiết ở chỗ đó và đất đó không phải là ruộng hoặc đất tốt thì đơn vị sử dụng đất đó làm đơn xin được phép ở lâu dài, nếu cấp có thẩm quyền thì được dùng, nếu không thì phải san lấp như cũ trả lại cho sản xuất.

7. Khi được lệnh di chuyển đi chỗ khác, đơn vị tự ý giao đất cho cơ quan khác hoặc cá nhân sử dụng:

Nguyên tắc không dùng nữa thì trả lại cho Nhà nước (cơ quan cấo đất) để dùng vào việc khác. Người tự ý cho nhượng phải đòi lại đất bàn giao cho Uỷ ban Nhân dân tỉnh, còn người đang sử dụng ruộngđất đó phải trả lại cho Nhà nước, nếu muốn sử dụng phải làm đầy đủ thủ tục xin phép theo Nghị định 47-CP.

8. Tiền đền bù ruộng đất hợp tác xã:

Cơ quan Nhà nước và xí nghiệp quốc doanh phải thanh toán đầy đủ tiền đền bù; "khoản đèn bù phải được tính toán căn cứ vào nhưng thiệt hại cụ thể về công khai phá, trồng trọt và chi phí để phục hồi lại sản xuất". Cách sử dụng tiền đền bù đó theo tinh thần Nghị định 125-CP ngày 28-6-1971 là dùng để cải tạo, thâm canh, tăng năng suất cây trồng hoặc là để khai hoang mở rộng diện tích canh tác bù vào chỗ đã mất.

9. Đơn vị sử dụng ruộng đất có xin phép những người cấp không có thẩm quyền:

Điểm a: điều 21 Nghị định 47-CP quy định "... nay nghiêm cấm việc cấp đất trưng dụng đất hoặc cấp đất không dùng thẩm quyền, không theo tiêu chuẩn quy định của Nhà nước, hoặc làm dụng chức vụ quyền hạn để làm những việc phi pháp trong việc giải quyết địa điểm, cấp giấy phép dùng đất xây dựng".

Thẩm quyền cấp đất được xác định theo các thời điểm sau đây:

a) Đối các tỉnh phía Bắc:

- Từ 14-4-1959 đến 14-3-1972: Theo Nghị định số 51-TTg ngày 14-4-1959

- Từ 15-3-1972 đến 30-6-1980: Theo Nghị định số 47-CP ngày 15-3-1972

(Riêng đối với đất trồng trọt thì từ 24-9-1974 đến 30-6-1980 theo Chỉ thị 231-TTg ngày 24-9-1974).

b) Đối với các tỉnh phía Nam: Từ 20-6-1976 đến 30-6-1980:

Theo thông tư số 02-TT/76 ngày 20-6-1976 của Chính phủ Cộng hoà miền Nam Việt Nam.

c) Đối với cả nước: Kể từ ngày 1-7-1980 theo Quyết định số: 201-CP ngày 1-7-1980

Trường hợp đơn vị sử dụng đất có xin phép những người cho cấp đã vi phạm những điều quy định về thẩm quyền đất như đã nói tại các văn bản trên. Xử lý như sau:

a) Người cho cấp đất vượt quyền phải kiểm điểm và tuỳ mức độ sai nặng nhẹ mà xử lý theo kỷ luật hành chính, nếu lợi dụng chức quyền để cho cấp đất trái phép gây tai hại lớn có thể truy cứu trách nhiệm nặng hơn.

b) Đơn vị sử dụng đất được cho cấp sai quy định phải trả lại đất cho sản xuất.

Nếu xét thấy khổng thể dỡ bỏ công trình, chuyển đi nơi khác thì đơn vị sử dụng ruộng đất phải làm đủ thủ tục để xin hợp pháp hoá, nếu không được duyệt thì phải san lấp như cũ trả đất cho sản xuất.

II. GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT KHÔNG HỢP PHÁP, KHÔNG HỢP LÝ TRONG KHU VỰC KINH TẾ TẬP THỂ VÀ TƯ NHÂN

1. Xã viên, cán bộ, tư nhân lấn chiếm ruộng đất hợp tác xã:

Vận dụng Chỉ thị 231-TTg ngày 24-9-1974 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tri số 224-TT/TW của Ban bí thư Trung ương Đảng đã quy định:

- Tất cả ruộng đất hợp tác xã bị các thành phần tư do lấn chiếm để làm nhà hoặc sản xuất riêng đều phải kiên quyết thu hồi về cho HTX sử dụng.

- Trường hợp đã làm nhà rồi cũng phải dỡ đi, nếu có nhiều khó khăn mà không dỡ được thì trừ vào đất 5% của người lấn chiếm.

- Trên diện tích đó nếu người lấn chiếm chưa nộp thuế, thì phải nộp thuế. Nếu HTX đã nộp thuế thì phải thanh toán lại cho HTX.

2. Tự do khai hoang đất công:

Thông tri số 224-TT/TW hướng dẫn giải quyết.

Cán bộ, xã viên tự do hoặc được Ban quản trị xã cho cấp đất công không đúng chính sách thì nói chung phải trả lại cho xã, HTX. Trên những đất đó nếu họ đã trồng cây cối thì được tính trả công và chi phí sản xuất. Trường hợp đất bị thu hồi không thể sử dụng tập thể được thì có thể cho họ tiếp tục sử dụng đất theo quy định của Quyết định số 318-CP ngày 10-9-1979 nhưng cần lưu ý là ngày để tính miễn thuế đất và nghĩa vụ lương thực là kể từ ngày họ được thu hoạch vụ đầu tiên chứ không phải từ ngày cho tiếp tục sử dụng đất. Nếu họ đã đào ao vượt thổ xây dựng thành cơ ngơi thì có thể để lại cho họ sử dụng nhưng họ phải lấy đất 5% đền lại cho HTX. Trường hợp hộ đó không có đất ở và sản xuất để sinh sống thì phải xử phạt theo qui định của Quyết định 201-CP ngày 1-7-1980 và cho làm thủ tục giấy tờ xin hợp pháp hoá chỗ đất đang sử dụng.

3. Đất 5% chia thừa:

Thông tư số 65-TTg ngày 15-7-1963 đã qui định những HTX để đất 5% gần đủ hoặc quá một ít thì cũng không phải để thêm hoặc rút bớt. Riêng những nơi đã để trên 6% thì kiên quyết sửa lại cho đúng. Việc để đất 5% cho gia đình xã viên căn cứ vào số nhân khẩu lúc vào HTX chứ không căn cứ vào số nhân khẩu hiện nay. Sửa theo tinh thần mới của Điều lệ HTX chi tiết thì việc chia đất 5% cho gia đình xã viên phải tính cả vào đất vườn và ao mà HTX không quản lý.

4. Xã viên, Hợp tác xã dấu ruộng đất để sản xuất riêng:

Chỉ thị 231-TTg đã qui định: "Đối với ruộng đất bị dấu giếm, đơn vị hoặc người sử dụng phải khai báo thật thà, chính quyền địa phương phải kiểm điểm và đưa diện tích vào kế hoạch sản xuất", phần ruộng đất của xã viên dấu thì vừa vận động vừa bắt buộc phải đưa hết vào hợp tác xã.

5. Ruộng đất Hợp tác xã bỏ hoang hoá:

"Đối với ruộng đất đã giao cho đơn vị quản lý sử dụng còn để hoang hoá phải có kế hoạch biện pháp đưa hết vào sản xuất và phải đạt năng suất và sản lượng theo kế hoạch. Trường hợp không sử dụng hết phải cho mượn hoặc giao lại cho Uỷ ban nhân dân địa phương phân phối sử dụng" theo đúng tinh thần qui định của Chỉ thị 231-TTg ngày 24/9/74 và các Quyết định số 318-CP ngày 10/9/1979 số 201-CP 1/7/1980.

6. Sử dụng ruộng đất lãng phí và không hợp lý trong xây dựng cơ bản của hợp tác xã.

Theo Chỉ thị 231-TTg: "Để xây dựng thêm nhà ở, trụ sở cơ quan, trường học, các cơ sở y tế, văn hoá, xã hôi... phải tận dụng đất trong các khu dân cư hoặc đất đã cấp từ trước, nhất thiết không được lấy thêm vào ruộng đất đang canh tác". Nếu đã lấy vào ruộng đất canh tác thì tìm cách chuyển vào trong khu vực thổ cư giải phóng đất để sản xuất.

+ Đối với việc lấy ruộng để làm giao thông thuỷ lợi.

"Việc xây dựng các tuyến giao thông, thuỷ lợi như đường xá, đê đập, kênh mương lớn phải sử dụng mất nhiều diện tích ruộng đất. Vì vậy trong tính toán và xét duyệt quy hoạch cũng như khi thiết kế và thi công hết sức tiết kiệm đất và phải lấy vào các loại đất không dùng được cho sản xuất nông nghiệp. Trường hợp phải lấy vào đất canh tác thì việc xét duệt cấp đất phải theo đúng quy định đã nói ở trên".

"Khi xây dựng tuyến mới để thay thế tuyến cũ ngành giao thông hoặc thuỷ lợi phải cải tạo tuyến cũ thành ruộng đất để trả lại cho sản xuất nông nghiệp".

"Khi lấy đất để đào đắp xây dựng mới hoặc bảo dưỡng các tuyến giao thông hoặc thuỷ lợi, phải hết sức tránh lấy vào đất đang sản xuất. Trường hợp không thể tránh được phải bớt giữ đất mầu lại, lấy xong phải san ủi các thùng đấu, rải đất mầu cho sản xuất. Không làm ảnh hưởng xấu đến ruộng đất đang sản xuất dọc theo các tuyến giao thông, thuỷ lợi".

+ Đối với việc lấy đất để làm gạch ngói: "Ngành xây dựng và các địa phương phải chỉ đạo và tổ chức việc mở rộng việc làm gạch, ngói không nung".

Trường hợp phải làm gạch, ngói nung thì chỉ được lấy ở các đồi, núi, gò, bãi hoang, lấy ở các lòng sông, lòng ao hồ, lòng kênh mương cần khơi sâu, các lạch sông, ngòi không sản xuất được, các đê cần huỷ bỏ, đất cải tạo đồng ruộng, v.v. không được lấy vào đất canh tác.

Những xí nghiệp, lò gạch lớn, nhỏ đang sử dụng đất canh tác để làm gạch, ngói nung, không được phát triển thêm, phải có kế hoạch tìm đất không sản xuất nông nghiệp được để làm gạch, ngói.

Đối với những chân ruộng đã lấy đất làm gạch, ngói, mặt bằng bị phá không sản xuất được, phải san lại thành ruộng để trả lại cho sản xuất, hoặc cải tạo thành ao hồ thả cá".

7. Trường hợp lấy đất quá mức được cấp hợp lệ:

Phần lấy quá mức coi như là tự do lấn chiếm, do đó:

- Thu lại phần lấy quá mức cấp đó cho sản xuất H.T.X.

- Nếu đã xây dựng thành nhà ở thì thì có thể cho sử dụng, nhưng họ phải lấy đất trả cho Hợp tác xã với diện tích bằng diện tích lấy quá mức cấp.

8. Đất cho cấp trái phép:

Chỉ thị 231-TTg quy định:"Đối với ruộng đất đã nhượng, cấp không đúng chính sách, chế độ Nhà nước đã quy định thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố phải thu hồi và trả lại cho sản xuất". Thi hành chỉ thị trên, nói chung mọi trường hợp chia cấp không đúng thẩm quyền đều phải kiên quyết thu hồi đất trả lại cho hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Nếu đã lỡ xây dựng cơ ngơi rồi và quả là nhu cầu bức thiết của người sử dụng đất đó thì có thể cho họ tiếp tục sử dụng (nếu không ảnh hưởng xấu đến quy hoạch sản xuất) nhưng họ phải chịu phạt theo quy định của Quyết định 201-CP ngày 1-7-1980 và phải làm đơn xin hợp thức hoá. Nếu vì ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân xung quanh mà cấp có thẩm quyền không cho phép thì cũng phải trả lại đất cho sản xuất.

- Nếu việc cho cấp trái phép có những quan hệ phức tạp bên trong thì xử lý theo Nghị quyết 228.

9. Mua, bán, chuyển nhượng ruộng đất trái phép

Nói chung, tất cả các việc chuyển nhượng, mua bán đất hoặc đất của Hợp tác xã chia cấp không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép và tất cả các việc chuyển nhượng, mua bán đất trước đây thuộc sở hữu tư nhân không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thị thực đêù là trái phép. Riêng đối với các tỉnh phía Nam, kể từ sau ngày 5-3-1975 ban hành Nghị định số 01-ND/75 của Chính phủ miền Nam Việt Nam, tất cả mọi việc mua, bán, chuyển nhượng ruộng đất giữa các tư nhân với nhau, dù là có được chính quyền địa phương thị thực, đều là trái phép. Xử lý các trường hợp này như sau:

--Đối với đất trước thuộc sở hữu tư nhân , hai bên mua bán trả lại cho nhau , nhười có đất lấy lại đất , người có tiền lấy lại tiền . Trường hợp người có đất không thể trực tiếp sử dụng đất hoặc không có người thừa kế sử dụng thì phải giao lại đất cho nhà nước để phân phối sử dụng theo qui định của quyết định số 201 -CP ngày 1-7-1960

- Đối với đất công, Nhà nước thu hồi đất của người mua và người bán phải trả lại tiền cho người mua.

- Nếu người mua đất thực sự không có đất để ở hoặc không có đất để làm ăn sinh sống, thì có thể cho họ tiếp tục sử dụng (nếu Nhà nước thu hồi đất của người bán) và Uỷ ban nhân dân huyện quyết định giao cho họ đất đang sử dụng.

10. Tranh chấp ruộng đất trong nội bộ nông dân ở các tỉnh phía Nam được giải quyết theo nghị quyết số 254-NQ/TW ngày 15-7-1976 của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 235-CT/TW ngày 20-9-76 của Ban Bí thư Trung ương Dảng.

III. GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT KHÔNG HỢP PHÁP, KHÔNG HỢP LÝ TRONG KHU VỰC NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH LÂM TRƯỜNG, TRẠM TRẠI

1. Công nhân, cán bộ trong biên chế cũng như đã về hưu, mất sức tự do lấn chiếm đất đai của nông trường, lâm trường, trạm trại để làm nhà và sản xuất:

Theo tinh thần Chỉ thị 23-TTg thì: "Đối với ruộng đất của các nông trường, lâm trường, trạm trại bị chiếm dụng trái phép thì cơ quan làm chủ ruộng đất phải thu hồi lại, phải quản lý và sử dụng theo đúng chế độ, chính sách Nhà nước".

Nông trường, lâm trường và trạm trại phải qui hoạch lại các khu dân cư cho cán bộ, công nhân trong biên chế cũng như đã về hưu, mất sức. Nông trường, lâm trường chưa xây dựng được nhà ở thì chia đất cho công nhân làm nhà theo thiết kế của khu vực, diện tích để cho mỗi hộ làm nhà ở và những công trình cần thiết, không cấp đất làm vườn.

- Những cá nhân nào làm nhà vào đất nông trường, lâm trường, trạm trại đang sản xuất làm ảnh hưởng không tốt tới sản xuất của nông trường, lâm trường, trạm trại hoặc đất đó nằm trong kế hoạch khai hoang của nông trường, lâm trường, trạm trại phải đưa ngay vào khu thổ cư đã qui định.

- Phải đưa ngay vào khu thổ cư đã qui định sẵn những hộ lẻ tẻ xen vào đồng ruộng gây khó khăn cho quản lý ruộng đất cũng như bảo vệ sản phẩm của nông trường, lâm trường.

- Những trường hợp cá nhân nào đã làm vào đất hoang rậm của nông trường, lâm trường, trạm trại mà chưa có kế hoạch khai hoang ngay, thấy chưa gây ảnh hưởng xấu tới quản lý sản xuất và sản phẩm... thì trước mắt có thể để cho họ ở chỗ cũ và không được tiếp tục mở rộng ra. Nông trường, lâm trường sẽ căn cứ vào tình hình cụ thể của mình mà quy định cho mỗi hộ một số diện tích nhất định thật cần thiết để ở. Chỗ còn lại nếu nông trường, lâm trường không có khả năng sử dụng thì để cho những gia đình đó tiếp tục sử dụng theo quy định của Quyết định số 318-CP ****** về chính sách khuyến khích tận dụng đất nông nghiệp.

2. Đất tăng gia riêng của các đoàn thể (công đoàn, thanh niên, tự vệ...)

Tất cả các ruộng đất của các đoàn thể tự khai hoang hoặc đất thuộc đát nông trường, lâm trường cho cấp để sản xuất riêng gây quỹ thì nay đều phải thu hồi giao lại cho nông trường sản xuất theo kế hoạch nhà nước.

3. Đất lãng phí trong xây dựng cơ bản:

- Các công trình không còn tác dụng thì phải cải tạo bề mặt trả lại cho sản xuất.

- Những diện tích dành cho xây dựng nhưng không sử dụng hết hoặc bỏ hoang thì nông trường, lâm trường, trạm trại phải có kế hoạch đưa vào sản xuất ngay.

- Trụ sở nông trường, lâm trường, trạm trại cũng như các đội sản xuất ruộng quá rộng thì cũng phải thu gọn lại giải phóng đất cho sản xuất.

4. Các hộ tư nhân, hợp tác xã, cơ quan, xí nghiệp nhà nước bên ngoài lán chiếm vào đất đai nông trường, lâm trường, trạm trại:

Theo tinh thần Chỉ thị 231-TTg tất cả những đất đai trong nông trường, lâm trường, trạm trại bị chiếm dụng một cách trái phép cũng như được cho cấp trái chính sách đều phải thu hồi lại toàn bộ đưa vào sản xuất của nông trường, lâm trường, trạm trại và có kế hoạch đưa hết vào sản xuất, phải đạt năng suất và sản lượng cao theo kế hoạch. Trường hợp không sử dụng hết phải giao lại cho Uỷ Ban Nhân Dân địa phương phân phối sử dụng, không được bỏ đất hoang hoá.

5. Giải quyết vấn đề tranh chấp đất đai giữa trạm trại, nông trường, lâm trường, hợp tác xã ở xen kẽ và tiếp giáp nhau:

Giải quyết theo tinh thần Chỉ thị số 14-TTg ngày 3-2-1962 và Thông tư số 31-TTg ngày 24-4-1963. Thông tư liên bộ Nội Vụ Nông Trường số 32-TT/LB ngày 23-11-1964, Uỷ Ban Nhân Dân các cấp và các ngành tích cực giải quyết tốt vấn đề tranh chấp đất đai còn tồn tại. Nếu xét thấy hợp lý có lợi cho cả hai bên, Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh có thể chấn chỉnh, phân bổ lại ruộng đất sau khi đã bàn bạc thống nhất với Bộ Nông nghiệp (nếu nông trường, trạm trại nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp quản lý) và với Bộ Lâm nghiệp (nếu là lâm trường, trạm trại lâm nghiệp thuộc Bộ Lâm nghiệp quản lý).

Do không thể hướng dẫn cách giải quyết được hết đối với mọi trường hợp sử dụng đất đai không hợp pháp, không hợp lý, nên Tổng Cục Quản Lý Ruộng Đất yêu cầu Uỷ Ban Nhân Dân các địa phương căn cứ vào bản hướng dẫn này và các văn bản đã hướng dẫn trên đây, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của địa phương, của từng người mà giải quyết cho sát với từng trường hợp cụ thể cho có lý, có tình, bảo đảm đoàn kết nông thôn và phát triển sản xuất theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Về thẩm quyền giải quyết các trường hợp sử dụng đất không hợp pháp, không hợp lý. Tổng Cục Quản Lý Ruộng Đất hướng dẫn như sau:

- Xử lý những sai trái về ruộng đất trong hợp tác xã của xã viên và Ban Quản Trị, Ban Quản Trị, Ban Kiểm Soát dự kiến cách sửa đưa ra đại hội xã viên hoặc đại hội đại biểu xã viên bàn bạc, Uỷ Ban Nhân Dân xã xét và đề nghị Uỷ Ban Nhân Dân huyện quyết định.

- Xử lý những sai trái của các công dân khác không thuộc Hợp tác xã quản lý thì Uỷ Ban Nhân Dân xã, thị trấn xét và đề nghị Uỷ Ban Nhân Dân huyện quyết định.

- Xử lý những sai trái của cán bộ, công nhân, người về hưu trong nông trường, lâm trường... do Giám Đốc Nông Trường, Lâm Trường phối hợp với Uỷ Ban Nhân Dân thị trấn xét và đề nghị Uỷ Ban Nhân Dân huyện quyết định.

- Xử lý những sai trái của các cơ quan, chuyên môn và các xí nghiệp... thuộc quyền quản lý của Uỷ Ban Nhân Dân cấp nào do Uỷ Ban Nhân Dân cấp ấy xét quyết định.

- Xử lý những sai trái của Uỷ Ban Nhân Dân cấp dưới thì Uỷ Ban Nhân Dân cấp trên trực tiếp quyết định.

- Đối với việc thu hồi đất thì cấp nào có quyền giao đất cấp ấy có quyền thu hồi ... Cơ quan quản lý ruộng đất cũng có thẩm quyền thu hồi đất nếu được uỷ nhiệm.

Phương châm chung là kiên quyết bảo vệ đất canh tác, bảo vệ chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh thu hồi ruộng đất sử dụng sai chính sách nhưng khi giải quyết cụ thể phải lâý việc giáo dục, vận động người làm sai tự trả lại đất là chính. Đồng thời phải cưỡng bức, bắt buộc những người làm sai mà không chịu sửa phải sửa theo đúng chính sách của Nhà nước.

Trong quá trình thực hiện nếu gặp khó khăn gì không giải quyết được, yêu cầu các địa phương phản ánh kịp thời lên Tổng Cục Quản Lý Ruộng Đất.

Xem nội dung VB
IV- ĐĂNG KÝ, THỐNG KÊ ĐẤT

1. Để thực hiện thống nhất quản lý ruộng đất, tất cả các tổ chức và cá nhân sử dụng đất đều phải khai báo chính xác và đăng ký các loại ruộng đất mình sử dụng vào sổ địa chính của Nhà nước, Ủy ban nhân dân xã phải kiểm tra việc khai báo này.
Giải quyết các trường hợp sử dụng ruộng đất không hợp pháp, không hợp lý được hướng dẫn bởi Thông tư 55/ĐKTK-1981 có hiệu lực từ ngày 20/11/1981 (VB hết hiệu lực: 04/05/2000)