Luật Đất đai 2024

Quyết định 121-CP năm 1967 về việc tính lịch và quản lý lịch của Nhà nước do Hội đồng Chính phủ ban hành

Số hiệu 121-CP
Cơ quan ban hành Hội đồng Chính phủ
Ngày ban hành 08/08/1967
Ngày công báo Đã biết
Lĩnh vực Lĩnh vực khác
Loại văn bản Quyết định
Người ký Phạm Văn Đồng
Ngày có hiệu lực Đã biết
Số công báo Đã biết
Tình trạng Đã biết

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 121-CP

Hà Nội, ngày 08 tháng 08 năm 1967

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC TÍNH LỊCH VÀ QUẢN LÝ LỊCH CỦA NHÀ NƯỚC

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ

Để thống nhất việc tính giờ và tính lịch dùng trong các cơ quan Nhà nước trong giao dịch giữa các cơ quan Nhà nứơc với nhân dân;
Theo đề nghị của ông Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước và ông Giám đốc Nhà xuất bản Khí tượng Việt Nam;
Căn cứ Nghị quyết Hội nghị thường vụ của Hội đồng Chính phủ ngày 26 tháng 04 năm 1967,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Nước ta nằm hoàn toàn trong múi giờ thứ 7, theo hệ thống múi giờ quốc tế. Kinh tuyến trung tâm của múi giờ đó là kinh tuyến 1050 đông, đi qua gần Hà nội.

Để thống nhất việc tính giờ, nay xác định giờ chính thức của nước ta là giờ của múi giờ thứ 7.

Điều 2. Từ Cách mạng tháng Tám, dương lịch (lịch Grê-goa) đã được dùng trong các cơ quan Nhà nước và trong giao dịch giữa các cơ quan Nhà nước với nhân dân. Âm lịch vẫn còn được thông dụng trong nhân dân nhất là ở nông thôn. Âm lịch có nhiều căn cứ tính và cách tính khác nhau, ngày, tháng âm lịch không thống nhất và không phù hợp với giờ chính thức của nước ta.

Nay quyết định dương lịch (lịch Grê-goa) là công lịch tức là lịch duy nhất được dùng trong các cơ quan Nhà nước, trong các tổ chức chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, của nước ta và trong giao dịch giữa các cơ quan Nhà nước với nhân dân. Ngày tết dân tộc, một số ngày kỷ niệm lịch sử và lễ cổ truyền vẫn được tính theo âm lịch.

Điều 3. Âm lịch dùng để định ngày tết dân tộc, một số ngày kỷ niệm lịch sử và lễ cổ truyền, là âm lịch tính theo giờ chính thức của nước ta.

Điều 4. Giao cho Nha Khí tượng nhiệm vụ tính ngày, tháng, năm âm lịch thống nhất của nước ta đối chiếu với ngày, tháng, năm dương lịch và nhiệm vụ quản lý những việc mà Nhà nước cần quản lý có liên quan đến lịch.

Điều 5. Quyết định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1968.

Điều 6. Các ông Chủ nhiệm Ủy ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Tổng cục trưởng Tổng cục Thông tin và Giám đốc Nha Khí tượng có trách nhiệm thi hành và hướng dẫn việc thi hành quyết định này.

 

 

TM. HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ




Phạm Văn Đồng

 

23
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tải về Quyết định 121-CP năm 1967 về việc tính lịch và quản lý lịch của Nhà nước do Hội đồng Chính phủ ban hành
Tải văn bản gốc Quyết định 121-CP năm 1967 về việc tính lịch và quản lý lịch của Nhà nước do Hội đồng Chính phủ ban hành
Chưa có văn bản song ngữ
Văn bản được hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản được hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản bị sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản bị đính chính - [0]
[...]
Văn bản bị thay thế - [0]
[...]
Văn bản được dẫn chiếu - [0]
[...]
Văn bản được căn cứ - [0]
[...]
Văn bản liên quan ngôn ngữ - [1]
[...]
Văn bản đang xem
Quyết định 121-CP năm 1967 về việc tính lịch và quản lý lịch của Nhà nước do Hội đồng Chính phủ ban hành
Số hiệu: 121-CP
Loại văn bản: Quyết định
Lĩnh vực, ngành: Lĩnh vực khác
Nơi ban hành: Hội đồng Chính phủ
Người ký: Phạm Văn Đồng
Ngày ban hành: 08/08/1967
Ngày hiệu lực: Đã biết
Ngày đăng: Đã biết
Số công báo: Đã biết
Tình trạng: Đã biết
Văn bản liên quan cùng nội dung - [0]
[...]
Văn bản hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản đính chính - [0]
[...]
Văn bản thay thế - [0]
[...]
[...] Đăng nhập tài khoản TVPL Basic hoặc TVPL Pro để xem toàn bộ lược đồ văn bản
Điều này được sửa đổi bởi Điều 1 Quyết định 134/2002/QĐ-TTg có hiệu lực kể từ ngày 14/10/2002
Điều 1. Sửa đổi Điều 1 của Quyết định số 121/CP ngày 8 tháng 8 năm 1967 của Hội đồng Chính phủ về việc tính lịch và quản lý lịch của Nhà nước như sau:

Lấy múi giờ thứ 7 theo hệ thống múi giờ quốc tế làm giờ chính thức của Việt Nam.

Xem nội dung VB
Điều 1. Nước ta nằm hoàn toàn trong múi giờ thứ 7, theo hệ thống múi giờ quốc tế. Kinh tuyến trung tâm của múi giờ đó là kinh tuyến 1050 đông, đi qua gần Hà nội.

Để thống nhất việc tính giờ, nay xác định giờ chính thức của nước ta là giờ của múi giờ thứ 7.
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 1 Mục II Thông tư 01-VLĐC-1967 có hiệu lực từ ngày 03/09/1967
Ngày 08-08-1967 Hội đồng Chính phủ đã ra quyết định về việc tính lịch và quản lý lịch của Nhà nước. Để thấu triệt ý nghĩa và thống nhất việc thi hành, Nha Khí tượng giải thích một số điểm sau đây:
...
II. NỘI DUNG CỤ THỂ CỦA QUYẾT ĐỊNH
1. Điều 1 xác định rõ chính thức của nước ta là giờ của múi giờ 7 mà kinh tuyến trung tâm (1050 đông) đi qua gần thủ đô của nước ta. Giờ đó đã được dùng như giờ chính thức từ Cách mạng tháng tám. Quyết định này nhằm bổ sung căn cứ khoa học cho nghị định của Bộ Nội vụ ban hành ngày 01/9/1945 về giờ chính thức, chứ không ảnh hưởng gì đến giờ giấc hiện dùng trong cơ quan Nhà nước và trong sinh hoạt của nhân dân.

Việc xác nhận chính thức còn được dùng tính lịch.

Trong công tác nghiên cứu khoa học và thông tin liên lạc với nước ngoài, có thể giờ khác (giờ quốc tế, giờ lịch, giờ địa phương…) nhưng phải xác định mối quan hệ với giờ chính thức.

Xem nội dung VB
Điều 1. Nước ta nằm hoàn toàn trong múi giờ thứ 7, theo hệ thống múi giờ quốc tế. Kinh tuyến trung tâm của múi giờ đó là kinh tuyến 1050 đông, đi qua gần Hà nội.

Để thống nhất việc tính giờ, nay xác định giờ chính thức của nước ta là giờ của múi giờ thứ 7.
Điều này được sửa đổi bởi Điều 1 Quyết định 134/2002/QĐ-TTg có hiệu lực kể từ ngày 14/10/2002
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 1 Mục II Thông tư 01-VLĐC-1967 có hiệu lực từ ngày 03/09/1967
Điều này được sửa đổi bởi Điều 1 Quyết định 134/2002/QĐ-TTg có hiệu lực kể từ ngày 14/10/2002
Điều 1. Sửa đổi Điều 1 của Quyết định số 121/CP ngày 8 tháng 8 năm 1967 của Hội đồng Chính phủ về việc tính lịch và quản lý lịch của Nhà nước như sau:

Lấy múi giờ thứ 7 theo hệ thống múi giờ quốc tế làm giờ chính thức của Việt Nam.

Xem nội dung VB
Điều 1. Nước ta nằm hoàn toàn trong múi giờ thứ 7, theo hệ thống múi giờ quốc tế. Kinh tuyến trung tâm của múi giờ đó là kinh tuyến 1050 đông, đi qua gần Hà nội.

Để thống nhất việc tính giờ, nay xác định giờ chính thức của nước ta là giờ của múi giờ thứ 7.
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 1 Mục II Thông tư 01-VLĐC-1967 có hiệu lực từ ngày 03/09/1967
Ngày 08-08-1967 Hội đồng Chính phủ đã ra quyết định về việc tính lịch và quản lý lịch của Nhà nước. Để thấu triệt ý nghĩa và thống nhất việc thi hành, Nha Khí tượng giải thích một số điểm sau đây:
...
II. NỘI DUNG CỤ THỂ CỦA QUYẾT ĐỊNH
1. Điều 1 xác định rõ chính thức của nước ta là giờ của múi giờ 7 mà kinh tuyến trung tâm (1050 đông) đi qua gần thủ đô của nước ta. Giờ đó đã được dùng như giờ chính thức từ Cách mạng tháng tám. Quyết định này nhằm bổ sung căn cứ khoa học cho nghị định của Bộ Nội vụ ban hành ngày 01/9/1945 về giờ chính thức, chứ không ảnh hưởng gì đến giờ giấc hiện dùng trong cơ quan Nhà nước và trong sinh hoạt của nhân dân.

Việc xác nhận chính thức còn được dùng tính lịch.

Trong công tác nghiên cứu khoa học và thông tin liên lạc với nước ngoài, có thể giờ khác (giờ quốc tế, giờ lịch, giờ địa phương…) nhưng phải xác định mối quan hệ với giờ chính thức.

Xem nội dung VB
Điều 1. Nước ta nằm hoàn toàn trong múi giờ thứ 7, theo hệ thống múi giờ quốc tế. Kinh tuyến trung tâm của múi giờ đó là kinh tuyến 1050 đông, đi qua gần Hà nội.

Để thống nhất việc tính giờ, nay xác định giờ chính thức của nước ta là giờ của múi giờ thứ 7.
Điều này được sửa đổi bởi Điều 1 Quyết định 134/2002/QĐ-TTg có hiệu lực kể từ ngày 14/10/2002
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 1 Mục II Thông tư 01-VLĐC-1967 có hiệu lực từ ngày 03/09/1967
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 2 Mục II Thông tư 01-VLĐC-1967 có hiệu lực từ ngày 03/09/1967
Ngày 08-08-1967 Hội đồng Chính phủ đã ra quyết định về việc tính lịch và quản lý lịch của Nhà nước. Để thấu triệt ý nghĩa và thống nhất việc thi hành, Nha Khí tượng giải thích một số điểm sau đây:
...
II. NỘI DUNG CỤ THỂ CỦA QUYẾT ĐỊNH
...
2. Điều 2 khẳng định dương lịch (lịch Grê-goa) là công lịch tức là lịch duy nhất được dùng trong các cơ quan Nhà nước, trong các tổ chức chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nước ta, trong giao dịch giữa Nhà nước với nhân dân và giao dịch với nước ngoài.

Hiện nay các cơ quan Nhà nước (hành chính, tư pháp, chuyên môn) và đoàn thể các cấp, đã dùng dương lịch một cách phổ biến nhưng vẫn còn một số ngành trong một số công việc chưa tôn trọng triệt để công lịch, còn ghi ngày tháng theo âm lịch hay theo cả dương lịch và âm lịch. Bất lợi nhất nói chung là việc đặt kế hoạch sản xuất, nói riêng là việc định thời vụ nông nghiệp theo âm lịch. Tình trạng đó cần phải chấm dứt. Trong việc chỉ đạo nông nghiệp cần bỏ hẳn việc lấy ngày, tháng âm lịch để định thời vụ.

Quyết định này bắt buộc phải dùng dương lịch trong các giấy tờ văn bản của các cơ quan Nhà nước giữa các cơ quan Nhà nước với nhân dân (thí dụ các đơn từ, các hợp đồng giữa nhân dân và Nhà nước …).

Về phần âm lịch, thì quyết định xác nhận là căn cứ để tính ngày Tết dân tộc, một số ngày kỷ niệm lịch sử và lễ cổ truyền. Như vậy là vẫn giữ nguyên những ngày lễ hiện hành còn tính theo âm lịch. Trong số đó, có những ngày thuần túy là ngày mặt trăng, có âm lịch mới tính được, như ngày Tết đầu năm âm lịch,ngày trung thu, rằm tháng tám v.v… nhưng cũng có những ngày lịch sử như ngày giỗ Tổ Hùng Vương, ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng… sau này có thể chuyển sang dương lịch để thống nhất với cách tính các ngày lễ chính thức.

Như vậy là âm lịch chỉ cần dùng trong việc định một số ngày lễ cổ truyền, ngoài ra thì các sinh hoạt tập thể và công cộng hoàn toàn có thể tính theo dương lịch.

Xem nội dung VB
Điều 2. Từ Cách mạng tháng Tám, dương lịch (lịch Grê-goa) đã được dùng trong các cơ quan Nhà nước và trong giao dịch giữa các cơ quan Nhà nước với nhân dân. Âm lịch vẫn còn được thông dụng trong nhân dân nhất là ở nông thôn. Âm lịch có nhiều căn cứ tính và cách tính khác nhau, ngày, tháng âm lịch không thống nhất và không phù hợp với giờ chính thức của nước ta.

Nay quyết định dương lịch (lịch Grê-goa) là công lịch tức là lịch duy nhất được dùng trong các cơ quan Nhà nước, trong các tổ chức chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, của nước ta và trong giao dịch giữa các cơ quan Nhà nước với nhân dân. Ngày tết dân tộc, một số ngày kỷ niệm lịch sử và lễ cổ truyền vẫn được tính theo âm lịch.
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 2 Mục II Thông tư 01-VLĐC-1967 có hiệu lực từ ngày 03/09/1967
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 3 Mục II Thông tư 01-VLĐC-1967 có hiệu lực từ ngày 03/09/1967
Ngày 08-08-1967 Hội đồng Chính phủ đã ra quyết định về việc tính lịch và quản lý lịch của Nhà nước. Để thấu triệt ý nghĩa và thống nhất việc thi hành, Nha Khí tượng giải thích một số điểm sau đây:
...
II. NỘI DUNG CỤ THỂ CỦA QUYẾT ĐỊNH
...
3. Điều 3 đề ra việc sửa đổi cách tính âm lịch cho phù hợp với vị trí của nước ta. Âm lịch từ nay phải căn cứ vào giờ chính thức của nước ta trong khi tính các tuần trăng, có như vậy mới đúng với ngày giờ xuất hiện mặt trăng trên đất nước ta. Theo cách tính cũ thì các ngày mồng một không có trăng có thể chậm hơn một ngày, do đó tháng đủ, tháng thiếu, năm nhuận, tháng nhuận có thể xê xích đi. Nay tính theo giờ chính thức của nước ta để cho chính xác hơn thì nhất định sẽ có những ngày Tết, những tháng nhuận, những năm nhuận khác với các lịch cũ.

Theo quyết định của Hội đồng Chính phủ tất cả các loại âm lịch còn tồn tại ở nước ta đều không thể dùng để tính ngày tháng âm lịch được kể từ ngày 01/01/1968. Bảng ngày tháng âm lịch dùng làm căn cứ để Bộ Nội vụ định các ngày lễ lớn hàng năm sẽ do Nha khí tượng tính theo điều 3 này.

Việc sửa đổi này mở đường cho công tác tính âm lịchở nước ta thành một công tác khoa học gắn liền với các tiến bộ về thiên văn học trong nước và trên thế giới. 4. Điều 4 nêu rõ trách nhiệm quản lý công tác làm lịch thuộc về Nhà nước. Nha khí tượng là cơ quan chuyên trách về các lịch thiên văn, được giao nhiệm vụ biên soạn bảng ngày tháng âm lịch hàng năm, lập các bảng đối chiếu ngày tháng âm và dương lịch và quản lý một số việc về lịch mà Chính phủ sẽ quy định cụ thể như sau.

Việc xuất bản và phát hành lịch phổ thông lưu hành trong nhân dân vẫn do Tổng cục thông tin đảm nhiệm. Các loại lịch xuất bản: lịch tường, lịch túi, lịch bàn,… đều phải ghi ngày tháng dương lịch là chính, ngoài ra có thể ghi thêm 24 tiết và ngày, tháng âm lịch theo tài liệu do Nha khí tượng cung cấp.

Các lịch xuất bản có thể ghi tên các năm theo số Can, Chi cổ truyền, nhưng không được tuyên truyền những điều có tính chất mê tín dị đoan về âm lịch.

Để phục vụ cho công tác sưu tầm lịch sử và việc đổi ngày, tháng trong nhân dân, Tổng cục Thông tin sẽ xuất bản cuốn "Lịch thế kỷ thứ 20" là một bảng đối chiếu âm và dương lịch từ năm 1901 đến năm 2001 do Nha Khí tượng biên soạn.

Xem nội dung VB
Điều 3. Âm lịch dùng để định ngày tết dân tộc, một số ngày kỷ niệm lịch sử và lễ cổ truyền, là âm lịch tính theo giờ chính thức của nước ta.
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 3 Mục II Thông tư 01-VLĐC-1967 có hiệu lực từ ngày 03/09/1967