Tại Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật thuế bảo vệ môi trường (BVMT), Bộ Tài chính đã đưa ra đề xuất là tăng khung thuế BVMT đối với một số mặt hàng xăng, dầu, nilong lên gấp 2-3 lần so với mức thuế hiện hành.
Như theo nội dung của Tờ trình Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế BVMT trình lên Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã nêu rõ sự cần thiết để xây dựng Dự án Luật mới nhằm sửa đổi, bổ sung khắc phục những bất cập, vướng mắc cho Luật thuế BVMT hiện hành. Liên quan đến nội dung về khung thuế BVMT, Bộ Tài chính phân tích như sau:
- Đối với xăng dầu: Mức thuế BVMT đối với xăng dầu đã bằng (đối với nhiên liệu bay) hoặc gần bằng mức trần trong khung thuế. Theo đó, trường hợp cần thiết phải điều chỉnh mức thuế BVMT đối với xăng, dầu để phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước trong từng thời kỳ là rất khó. Vì vậy, cần nghiên cứu để mở rộng khung thuế BVMT đối với xăng, dầu.
- Đối với túi ni lông: Luật thuế BVMT quy định Biểu khung mức thuế tuyệt đối đối với túi ni lông từ 30.000 đồng/kg - 50.000 đồng/kg, mức thuế hiện hành là 40.000 đồng/kg (tương đương khoảng 200% giá bán hiện hành nhưng 1kg túi ni lông có thể có từ 100 - 200 túi, nghĩa là thuế BVMT chỉ thu khoảng 200 - 400 đồng/túi). Nếu tăng mức thuế BVMT đối với túi ni lông lên mức trần 50.000 đồng/kg thì cũng chỉ tương đương từ 250 - 500 đồng/túi.
Theo kinh nghiệm quốc tế thì nhiều nước trên thế giới đang áp dụng mức thuế BVMT cao hoặc cấm sản xuất, bán, sử dụng túi ni lông. Cụ thể như: ở Anh: 15cent/túi, tương đương 4.500đ/túi; Ailen: 15cent/túi, tương đương 4.500đ/túi; Hồng Kông: 0,05USD/túi, tương đương 1.050đ/túi; Estonia đang dự kiến thu thuế đối với túi ni lông ở mức 2 kroons/túi, tương đương 3.000 đồng/túi. Một số nước khác còn cấm sản xuất, bán, sử dụng túi ni lông mỏng, ví dụ như Trung Quốc cấm sản xuất, bán, sử dụng túi ni lông có độ dày nhỏ hơn 0,025mm.
Như vậy, khung và mức thu thuế BVMT đối với túi ni lông của Việt Nam là thấp so với các nước trên thế giới, nên chưa có tác động nhiều tới hạn chế việc sản xuất, sử dụng túi ni lông. Do đó, cần nghiên cứu điều chỉnh khung thuế BVMT đối với túi ni lông để góp phần đảm bảo mục tiêu giảm dần việc sử dụng túi ni lông khó phân hủy trong tiêu dùng và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tại Dự thảo Luật thuế bảo vệ môi trường sửa đổi, mức thuế của các mặt hàng được điều chỉnh như sau:
STT |
Hàng hóa |
ĐVT |
Khung mức thuế |
I |
Xăng, dầu, mỡ nhờn, bao gồm |
|
|
1 |
Xăng, trừ etanol |
lít |
3.000-8.000 |
2 |
Nhiên liệu bay |
lít |
3.000-6.000 |
3 |
Dầu diezel |
lít |
1.500-4.000 |
4 |
Dầu hỏa |
lít |
300-2.000 |
5 |
Dầu mazut |
lít |
900-4.000 |
6 |
Dầu nhờn |
lít |
900-4.000 |
7 |
Mỡ nhờn |
kg |
900-4.000 |
8 |
Xăng E5 |
lít |
2.700-7.200 |
9 |
Xăng E10 |
lít |
2.500-6.800 |
IV |
Túi ni lông |
kg |
40.000-80.000 |
Hiện Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế bảo vệ môi trường đang được lấy ý kiến đóng góp trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, dự kiến có hiệu lực vào năm 2018.