Dự thảo Bộ luật lao động 2017 hiện vẫn đang được lấy ý kiến, góp ý, dự kiến đưa vào áo dụng từ 01/01/2018. Xoay quanh những quy định mới mẻ được đề xuất trong Dự thảo là những ý kiến, quan điểm ủng hộ và không ủng hộ. Thế nhưng, Bộ luật lao động dù có điều chỉnh như thế nào cũng đều hướng đến mục đích bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động nói chung. Dưới đây là một đề xuất mà được đông đảo người lao động ủng hộ.
Theo như Dự thảo Bộ luật Lao động 2017 đã đề xuất, quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động được quy định như sau:
Phương án 1: Giữ nguyên như quy định hiện hành tại Bộ luật lao động 2012 (có lý do + thời hạn báo trước)
1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;
d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;
đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;
e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;
g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ mà khả năng lao động chưa được hồi phục.
2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:
a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;
b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;
c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.
3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.
Phương án 2: Người lao động có quyền chấm dứt HĐLĐ bất kể lúc nào không vì lý do gì mà chỉ cần thời hạn báo trước (để tạo cơ hội tìm kiếm việc làm tốt hơn cho người lao động và để phòng ngừa, xóa bỏ lao động cưỡng bức). Có lẽ đây là quy định khá mở, khá tự do cho người lao động, chiếm tỷ lệ lớn người lao động ủng hộ. Theo đó:
1. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động bất cứ thời điểm nào với điều kiện phải báo trước:
a) 45 ngày đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
b) 30 ngày đối với người lao động làm việc theo hợp đồng xác định thời hạn;
c) 05 ngày làm việc đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ.
2. Người lao động không cần báo trước theo quy định tại Khoản 1 Điều này trong những trường hợp sau:
a) Người lao động không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thống nhất giữa các bên;
b) Người lao động không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn như đã thống nhất giữa các bên;
c) Người lao động bị ngược đãi, quấy rối tình dục hoặc cưỡng bức lao động.
d) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền.