Với những chính sách tích cực về viễn thông, nhất là sau khi ban hành Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002, Việt Nam đã tạo ra hành lang pháp lý để thúc đẩy cạnh tranh, khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp mới tham gia thị trường. Tuy nhiên, sau một thời gian triển khai các quy định về viễn thông, đặc biệt khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 đã bộc lộ một số điểm không còn phù hợp, vì vậy việc xây dựng Luật Viễn thông là hết sức cần thiết.
- 03 nghị định, 02 thông tư hướng dẫn Luật Viễn thông sắp được ban hành
- Kế hoạch triển khai thi hành Luật Viễn thông
- Tạo điều kiện để các doanh nghiệp viễn thông phát triển hạ tầng
- Nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia
Với những chính sách tích cực về viễn thông, nhất là sau khi ban hành Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002, Việt Nam đã tạo ra hành lang pháp lý để thúc đẩy cạnh tranh, khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp mới tham gia thị trường. Tuy nhiên, sau một thời gian triển khai các quy định về viễn thông, đặc biệt khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 đã bộc lộ một số điểm không còn phù hợp, vì vậy việc xây dựng Luật Viễn thông là hết sức cần thiết.
Một trong những nội dung quan trọng được đề cập trong dự thảo Luật này là vấn đề bảo vệ quyền lợi của người sử dụng dịch vụ; thúc đẩy cạnh tranh, bình đẳng và hội nhập kinh tế quốc tế.
Bảo vệ quyền lợi của người sử dụng dịch vụ
Dự thảo Luật đã có các quy định phù hợp nhằm mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế trong kinh doanh viễn thông, đặc biệt là đối với lĩnh vực thiết lập hạ tầng mạng nhằm triển khai mạng viễn thông rộng khắp, xóa khoảng cách số giữa các vùng miền, đặc biệt đối với một bộ phận người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo phù hợp với các chính sách của Đảng và Nhà nước.
Dự thảo đã quy định cụ thể quyền lợi trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và quyền lợi người sử dụng dịch vụ (Điều 15, 16, 18). Với các quy định này sẽ đảm bảo quyền lợi người sử dụng dịch vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hóa các dịch vụ. Các quy định về quản lý giá cước và các nội dung thông tin cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ viễn thông và nâng cao nhận thức của người sử dụng dịch vụ viễn thông đáp ứng nhu cầu thiết thực trong cuộc sống.
Các quy định của dự thảo nhằm mục đích phổ cập dịch vụ viễn thông đến với từng người dân, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và đáp ứng nhu cầu thực tiễn (Chương 3). Nhà nước hỗ trợ đáp ứng cung cấp các loại hình dịch vụ viễn thông theo từng thời kỳ nhằm mục đích xây dựng xã hội thông tin rộng rãi trong toàn quốc góp phần nâng cao nhận thức người dân, phục vụ công tác quản lý, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Thúc đẩy cạnh tranh
Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 chủ yếu điều chỉnh các quy định về kỹ thuật, nghiệp vụ viễn thông trong khi các quy định về thị trường, về hoạt động kinh doanh viễn thông chưa được thể hiện rõ nét trong khi một số quốc gia có một luật riêng về Kinh doanh viễn thông (Telecommunication Business Act). Để khắc phục hạn chế này của Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 cũng như để đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tế và thông lệ quốc tế dự thảo Luật đã quy định một chương (Chương 2) về Kinh doanh viễn thông. Các quy định tại chương này về doanh nghiệp viễn thông; đầu tư trong viễn thông; cạnh tranh trong kinh doanh viễn thông; sở hữu trong doanh nghiệp viễn thông... sẽ tiếp tục thúc đẩy cạnh tranh, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh viễn thông trong môi trường bình đẳng, công bằng, minh bạch theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các quy định của Dự thảo Luật đã thể chế hóa các cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là cam kết của Việt Nam trong Tổ chức Thương mại Thế giới. Việc quy định mọi thành phần kinh tế được đầu tư vào lĩnh vực viễn thông nhằm tạo môi trường kinh doanh viễn thông lành mạnh và thu nguồn vốn đầu tư của nước ngoài; các quy định mới đã được thúc đẩy cạnh tranh, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh viễn thông trong môi trường công bằng, minh bạch theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bình đẳng
Dự thảo Luật đã mở rộng đối tượng tham gia thị trường viễn thông (khoản 2 và khoản 3 Điều 14), tách bạch doanh nghiệp cung cấp cơ sở hạ tầng viễn thông và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông. Việc cấp phép viễn thông đã được giảm thiểu các thủ tục hành chính và số lượng giấy phép. Việc quy định chi tiết cụ thể mang tính pháp luật về sở hữu chéo và tập trung kinh tế trong kinh doanh viễn thông cũng như các quy định trong quản lý giá cước, kết nối, sử dụng chung hoặc chia sẻ hạ tầng quy định điều kiện pháp lý về quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp tham gia thị trường viễn thông đã tạo ra môi trường pháp lý minh bạch, bình đẳng cho thị trường viễn thông Việt Nam, thúc đẩy cạnh tranh, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Dự thảo Luật đã xây dựng các quy định mới liên quan đến cạnh tranh trong viễn thông như không bù chéo các dịch vụ hội tụ giữa phát thanh truyền hình, Internet, viễn thông, không sử dụng ưu thế mạng lưới và thị phần dịch vụ để hạn chế khả năng thâm nhập thị trường của doanh nghiệp mới tạo điều kiện xây dựng một thị trường cạnh tranh lành mạnh và hoàn hảo đem lợi ích về chất lượng dịch vụ, công nghệ cho người sử dụng dịch vụ. Dự thảo Luật thúc đẩy việc đầu tư phát triển thị trường viễn thông trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh tạo điều kiện để các doanh nghiệp thu hút nguồn vốn đầu tư và tổ chức kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Hội nhập
Các quy định mới về sử hữu trong đầu tư viễn thông đã thúc đẩy sự phát triển của thị trường với mục đích nhằm mở cửa mạnh thị trường viễn thông thu hút nguồn vốn đầu tư về tài chính cũng như kinh nghiệm, nhân lực đảm bảo quy mô và sự phát triển bền vững của hạ tầng mạng lưới, bên cạnh đó vẫn đảm bảo quyền quản lý kinh doanh viễn thông của Nhà nước đối với mạng viễn thông (hạ tầng kỹ thuật) có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và toàn vẹn lãnh thổ.
Bên cạnh đó đối với nhà đầu tư nước ngoài, Dự thảo Luật đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào thị trường viễn thông trên cơ sở các cam kết quốc tế của Việt Nam, nhất là cam kết WTO về lộ trình mở cửa; hình thức đầu tư; tỷ lệ phần vốn góp…
Nguồn: Bộ Tư pháp
- Từ khóa:
- Dự thảo
- Luật viễn thông 2009