Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thông qua ngày 9-11-1946 quy định về quyền lập Hội của công dân như sau: Công dân Việt Nam có quyền: - Tự do ngôn luận; - tự do xuất bản; - tự do tổ chức và hội họp; - tự do tín ngưỡng; - tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài...
Đường lối của Đảng CSVN về quyền lập Hội
Ngay từ những năm 1930, khi Đảng CSVN được thành lập, nhiều hội, phường - những liên kết, tập hợp quần chúng nhân dân đã tích cực hưởng ứng đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc do Đảng chủ trương. Hàng trăm, ngàn hội nhỏ của dân chúng thị thành, nông thôn hoạt động trong các lĩnh vực xã hội, nhân đạo, từ thiện, sở thích, v.v… ngày càng giác ngộ và ý thức được nỗi nhục mất nước, đã ủng hộ và giúp đỡ sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng CSVN khởi xướng. Đảng CSVN cũng đã tập hợp được rộng rãi quần chúng thông qua việc thành lập các tổ chức chính trị - quần chúng, như là Mặt trận Đồng minh phản đế Đông dương năm 1930, Mặt Trận Dân chủ (1936 - 1939), Mặt trận Việt Minh (1942 - 1946), Mặt trận Liên Việt (1946 - 1954), v.v…
Cách mạng tháng 8 - 1945 thành công, hoà bình và thống nhất đất nước năm 1975, sự khởi sắc phát triển của đất nước Việt Nam trong những năm của thời kỳ Đổi mới - là những mốc lịch sử minh chứng về sự đóng góp, cống hiến vô cùng to lớn của các tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp to lớn của các tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp giữ nước và dựng nước, trong đó các hội, tổ chức xã hội đã có vai trò rất quan trọng.
Từ khi thành lập tới nay, Đảng CSVN luôn luôn khẳng định Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, cho nên đã luôn chú ý tới việc tập hợp và phát triển các tổ chức quần chúng, tổ chức xã hội.
Nghị quyết 8B-NQ/HNTW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VI ngày 27-3-1996 đã nêu rõ: “trong giai đoạn mới cần thành lập các Hội đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống của nhân dân hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà, tương thân, tương ái. Các tổ chức Hội quần chúng được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự trang trải về tài chính trong khuôn khổ pháp luật”.
Cũng trên tinh thần đó, Nghị quyết của Đại hội IX Đảng CSVN đã chỉ rõ: mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hoá, hữu nghị, từ thiện – nhân đạo (Văn kiện Đại hội ĐCSVN, NXB Chính trị quốc gia 2001)
Pháp luật Việt Nam về Quyền lập Hội
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ban hành Sắc lệnh số 52, ngày 22-4-1946 quy định về quyền lập Hội.
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thông qua ngày 9-11-1946 quy định về quyền lập Hội của công dân như sau: Công dân Việt Nam có quyền: - Tự do ngôn luận; - tự do xuất bản; - tự do tổ chức và hội họp; - tự do tín ngưỡng; - tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài (Điều 10).
Ngày 20-5-1957, văn bản pháp luật đầy đủ đầu tiên về quyền lập Hội của nhân dân Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. Sắc lệnh số 102, ban hành dưới hình thức một đạo Luật - Luật quy định về quyền lập Hội.
Điều 1 của đạo luật này quy định: “Quyền lập Hội của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta. Quy định này chính thức khẳng định cam kết của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tôn trọng quyền lập hội của nhân dân. Đồng thời cũng chỉ rõ một số điều kiện thực thi quyền lập hội. Đó là: a) mục đích phải rõ ràng, chính đáng, phù hợp với lợi ích của nhân dân; b) hoạt động của hội phải có tác dụng đoàn kết nhân dân; c) hoạt động của hội phải nhằm xây dựng chế độ dân chủ nhân dân.
Điều 2 của đạo Luật năm 1957 cũng quy định chi tiết một số quyền của công dân khi thực thi quyền lập Hội. Mọi người đều có quyền lập hội, trừ những người mất quyền công dân hoặc đang bị truy tố trước pháp luật. Mọi người có quyền tự do vào hội thành lập hợp pháp, và có quyền tự do ra hội. Không ai được xâm phạm quyền lập hội và quyền tự do vào hội, ra hội của người khác…
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, được thông qua ngày 31-12-1959, quy định về quyền lập hội của công dân như sau: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có các quyền và tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước đảm bảo những điều kiện vật chất cần thiết để công nhận được hưởng các quyền đó (Điều 25).
Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được thông qua ngày 18-12-1980, quy định về quyền lập hội của công dân như sau: Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân. Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó. Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân (Điều 67).
Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được thông qua ngày 15-4-1992, quy định về quyền lập hội của công dân như sau: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật (Điều 69).
Dưới góc độ lịch sử lập Hiến và lập pháp của Việt Nam, liên quan tới quyền lập hội của nhân dân, có thể khẳng định rằng từ khi dành được nền độc lập chính trị khỏi chế độ thực dân Pháp cho đến nay, quyền lập hội vẫn luôn được Nhà nước Việt Nam chính thức công nhận như một trong những quyền và tự do cơ bản, quan trọng của nhân dân.
Trong quan hệ quốc tế, Nhà nước Việt Nam cũng đã cam kết tôn trọng và đảm bảo thực thi các quyền và tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền lập hội. Việt Nam đã tham gia nhiều Công ước quốc tế về Nhân quyền, trong đó Công ước quan trọng nhất, được hầu hết các quốc gia trên thế giới cam kết tuân thủ là Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16-12-1966. Điều 22 của Công ước này quy định về quyền lập hội như sau:
“1) Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ lợi ích của mình.
2) Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định và những hạn chế này là cần thiết trong xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, để bảo vệ sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng, hoặc các quyền và tự do của các người khác”.
Với tư cách là thành viên tham gia Công ước năm 1966 về các quyền dân sự và chính trị, Nhà nước Việt Nam có nghĩa vụ pháp lý liên quan đến việc thực thi quyền lập hội trên lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền lập hội của nhân dân, không chỉ thuần tuý nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, nhằm cụ thể hoá quyền Hiến định về tự do lập Hội được Hiến pháp Việt Nam công nhận. Việc xây dựng pháp luật về quyền lập hội còn là một việc cần phải làm, là một nghĩa vụ pháp lý của Nhà nước Việt Nam trong quan hệ quốc tế.
Luật về Hội phải là một khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh
Trong xu thế hội nhập quốc tế, tiếp tục thực thi chính sách Đổi mới, Chính phủ Việt Nam đã quan tâm tới việc xây dựng pháp luật về quyền lập hội. Đầu những năm 1990, Bộ Nội vụ là cơ quan của Chính phủ được giao trách nhiệm soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật về Hội. Ngày 30-7-2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định 88/2003/NĐ-CP quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội. Tiếp theo, ngày 15-01-2004, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 01-2004/TT-BNV hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 88/2003/NĐ-CP.
Với việc ban hành và áp dụng Nghị định của Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội, cũng như Thông tư số 01/2004/TT-BNV của Bộ Nội vụ, đã có nhiều Hội, tổ chức xã hội mới được thành lập, hoạt động, đóng góp đáng kể cho xã hội.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện Nghị định 88 và các văn bản liên quan khác về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, tổ chức xã hội, cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Xin đơn cử một số ý kiến về khó khăn và bất cập qua việc thực hiện Nghị định 88 như dưới đây.
- Ý kiến của Sở Nội vụ Hà Nội (Trích từ Báo cáo Kết quả nghiên cứu, khảo sát việc thực thi Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30-7-2003 của Chính phủ quy định tổ chức, hoạt động và quản lý Hội từ phía các cơ quan quản lý nhà nước do Hội Luật gia Việt Nam và Trung tâm Thông tin và Phát triển cộng đồng (CICD) tiến hành).
Riêng việc quản lý Nhà nước ở thành phố hiện nay, sau khi cấp phép thành lập cho các tổ chức Hội thì hầu như không quản lý gì được.
- Ý kiến của 28 Hội - tổ chức phi chính phủ (Trích từ: Báo cáo Đánh giá tác động của Nghị định 88/2003/NĐ-CP - vấn đề và kiến nghị, do CICD thực hiện).
Hầu hết các Hội cấp tỉnh đều có chung ý kiến rằng Nghị định 88 đã gây khó khăn cho việc thành lập hội cấp quận huyện, vì trước Nghị định 88 cấp quận huyện do UBND quận huyện cho phép thành lập, nay do UBND tỉnh thành phố trực thuộc TƯ quyết định, nên đã gây khó khăn phiền hà cho cả hội quận huyện lẫn UBND tỉnh, thành.
- Một số cơ quan nhà nước khi nói về những khó khăn, bấp cập sau hai năm thực hiện Nghị định 88/2003/NĐ-CP trong Báo cáo Kết quả nghiên cứu, khảo sát việc thực thi Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30-7-2003 của Chính phủ quy định tổ chức, hoạt động và quản lý Hội từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước hầu hết cũng đều đưa ra ý kiến cần đơn giản hơn nữa về một số thủ tục hành chính cũng như vấn đề quản lý Nhà nước đối với hoạt động của hội. Còn các tác giả của bản Báo cáo thì đánh giá: Thực tế cho thấy, việc phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước vào quá trình cấp phép như hiện nay còn nhiều hạn chế. Vấn đề này Nghị định 88 chưa giải quyết triệt để dẫn đến thủ tục thành lập Hội chưa thực sự được đơn giản, nhanh chóng.
Một thực tế nữa là trong quá trình thực thi Nghị định 88, quan điểm của một số địa phương do không hiểu hết hoặc là do Nghị định 88 không quy định nên áp dụng quá máy móc gây khó khăn cho các tổ chức Hội.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên đây, có lẽ một phần cũng là do khi tiến hành soạn thảo Nghị định 88, cơ quan soạn thảo đã không tiến hành tham vấn ý kiến của các tổ chức Hội, là những đối tượng chịu tác động của Nghị định. Nội dung của Nghị định 88, vì thế mà xa rời thực tế, không khả thi. Do vậy, khuôn khổ pháp luật về Hội cần phải được sửa đổi, hoàn chỉnh.
Đồng thời, nhu cầu hoạt động của xã hội dân sự, vai trò quản lý Nhà nước đối với hội, tổ chức xã hội, cũng như đòi hỏi của xu thế hội nhập quốc tế đang là những yếu tố có tính thời sự cao, khẳng định sự cần thiết phải ban hành một khuôn khổ pháp lý tương đối hoàn chỉnh, dưới hình thức một đạo luật, nhằm một mặt thực thi đầy đủ quyền lập hội của nhân dân, phát huy vai trò của xã hội dân sự, và mặt khác, đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước đối với hội, tổ chức xã hội, hướng tới một Nhà nước pháp quyền. Trong bối cảnh này, Bộ Nội vụ đã được Chính phủ giao nhiệm vụ chủ trì đề án xây dựng Luật về Hội.
Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam