Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân là quyền được Hiến pháp bảo vệ. Vì vậy, không phải trường hợp nào công an cũng được tùy ý khám xét nhà ở của người dân.
Khi nào công an được khám xét nơi ở của người dân? (Ảnh minh họa)
Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc khám xét phải được tiến hành theo các thủ tục sau:
1. Khám xét nơi ở theo thủ tục hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, chổ ở của công dân chỉ bị khám xét trong 2 trường hợp sau:
-
Khi có căn cứ để nhận định chỗ ở có công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, dữ liệu điện tử, tài liệu khác có liên quan đến vụ án;
-
Khi cần phát hiện người đang bị truy nã, truy tìm và giải cứu nạn nhân.
Trong những trường hợp còn lại quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân sẽ được Hiến pháp bảo vệ căn cứ theo khoản 2 Điều 22 Hiến pháp năm 2013.
Theo đó, trong những trường hợp được khám xét chỗ ở của người dân, cá nhân, tổ chức có thẩm quyền phải tuân thủ đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Cụ thể:
Trước khi tiến hành khám xét:
- Có quyết định của người có thẩm quyền ra lệnh khám xét, bao gồm:
-
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
-
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
-
Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
Trường hợp Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp và những chủ thể quy định tại khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 ra quyết định khám xét thì phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành.
- Trước khi tiến hành khám xét, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian và địa điểm tiến hành khám xét để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc khám xét, trừ trường hợp khám xét khẩn cấp. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám xét. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản khám xét.
Trong quá trình khám xét:
- Khi khám xét chỗ ở thì phải có mặt người đó hoặc người từ đủ 18 tuổi trở lên cùng chỗ ở, có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người chứng kiến;
- Trường hợp người đó, người từ đủ 18 tuổi trở lên cùng chỗ ở cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc vì lý do khác họ không có mặt mà việc khám xét không thể trì hoãn thì việc khám xét vẫn được tiến hành nhưng phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi khám xét và hai người chứng kiến.
Lưu ý:
- Không được bắt đầu việc khám xét chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản;
- Khi tiến hành khám xét chỗ ở những người có mặt không được tự ý rời khỏi nơi đang bị khám, không được liên hệ, trao đổi với nhau hoặc với những người khác cho đến khi khám xét xong.
Sau khi khám xét xong:
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi khám xét xong, người ra lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ việc, vụ án.
Lưu ý: Mọi trường hợp khám xét đều được lập biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án.
2. Khám xét nơi ở theo thủ tục hành chính
Theo quy định tại Điều 129 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, việc khám xét nơi ở theo thủ tục hành chính được tiến hành như sau:
- Tương tự như trường hợp khám xét nơi ở theo thủ tục hình sự việc khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính chỉ được tiến hành khi có căn cứ cho rằng ở nơi đó có cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
- Thẩm quyền ra quyết định khám xét nơi ở theo thủ tục hành chính sẽ do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định.
- Khi khám nơi ở phải có mặt người chủ nơi bị khám hoặc người thành niên trong gia đình họ và người chứng kiến. Trong trường hợp người chủ nơi bị khám, người thành niên trong gia đình họ vắng mặt mà việc khám không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và 02 người chứng kiến.
Lưu ý:
- Không được khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp hoặc việc khám đang được thực hiện mà chưa kết thúc nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
- Mọi trường hợp khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải có quyết định bằng văn bản và phải lập biên bản. Quyết định và biên bản khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải được giao cho người chủ nơi bị khám 01 bản.
Có thể thấy, việc khám xét nơi ở của công dân rất bị hạn chế, nhất là khi quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân được Hiến pháp bảo vệ. Chỉ trong những trường hợp có đủ căn cứ xác đáng theo quy định thì mới được khám xét nơi ở của công dân. Trong trường hợp được khám xét thì người có thẩm quyền cũng phải tuân thủ trình tự, thủ tục khắt khe nêu trên.
Thùy Trâm