Phân chia tài sản khi không đăng ký kết hôn như thế nào? Đây là câu hỏi được rất nhiều cặp đôi đặt ra khi về sống chung với nhau như vợ chồng nhưng lại không đăng ký kết hôn và đến một ngày cả hai không còn muốn sống chung với nhau nữa.
Phân chia tài sản khi không đăng ký kết hôn như thế nào? - Ảnh minh họa
Về vấn đề này, Ban biên tập THƯ KÝ LUẬT xin giải đáp như sau:
Theo quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân gia đình 2014 thì:
Điều 16. Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
Theo đó, trường hợp các cặp đôi chỉ sống chung mà không đăng ký kết hôn thì các tài sản được hình thành trong khoảng thời gian hai người sống chung có thể được xem là tài sản thuộc sở hữu chung, nếu chia tay thì việc phân chia tài sản chung có thể được giải quyết theo thỏa thuận của hai bên.
Hơn nữa, vì quan hệ vợ chồng ở đây không được công nhận do hai bên không đăng ký kết hôn nên mối quan hệ này chỉ được coi là sự kiện nam nữ sống chung với nhau, trường hợp các cặp đôi không còn muốn sống chung nữa thì không cần phải thực hiện thủ tục ly hôn.
Trường hợp hai bên không thỏa thuận được với nhau về việc phân chia tài sản, lúc này việc giải quyết sẽ được áp dụng theo Điều 219 Bộ luật Dân sự 2015 về chia tài sản thuộc sở chung, cụ thể như sau:
Điều 219. Chia tài sản thuộc sở hữu chung
1. Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Như vậy, theo các quy định trên có thể thấy, việc phân chia tài sản chung giữa 2 người sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn trước hết sẽ được giải quyết theo thỏa thuận giữa hai bên, trường hợp hai bên không thỏa thuận được thì có thể khởi kiện ra tòa án. Đối với các tài sản mà các bên có căn cứ chứng minh có sự đóng góp bằng công sức hoặc tiền bạc của mình vào sự tạo lập nên tài sản thì tài sản đó được xem là tài sản thuộc sở hữu chung, và việc phân chia sẽ dựa theo công sức đóng góp của mỗi bên. Đối với những tài sản do mỗi bên tự tạo lập nên sẽ là tài sản riêng và không cần phải phân chia.
Nguyễn Trinh
- Từ khóa:
- Luật Hôn nhân gia đình 2014