Một số điểm mới của Luật Thi hành án dân sự sửa đổi 2014

Sau 6 năm thi hành, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã bộc lộ nhiều điểm bất cập, không phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII, Chính phủ đã trình Quốc hội xem xét thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2008.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội Khóa XIII, Kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2015. Luật đã sửa đổi, bổ sung 47 Điều; bãi bỏ Điều 32, 33, 34, 51, 138, 139, điểm b khoản 1 Điều 163, các khoản 3 và 4 Điều 179 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Luật có một số nội dung sửa đổi, bổ sung nổi bật là:

1. Mở rộng và quy định chi tiết hơn quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Điều 7,  Điều 7a và Điều 7b).

Luật đã mở rộng, tạo điều kiện cho người được thi hành án không chỉ có quyền yêu cầu thi hành án, đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định, áp dụng biện pháp bảo đảm, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án mà còn có quyền được thông báo về thi hành án; yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ, đính chính lỗi chính tả, sai sót về số liệu trong bản án, quyết định của mình… . Quy định này, cùng với quy định về quyền được ủy quyền cho người khác xác minh, cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; quyền chuyển giao quyền được thi hành án cho người khác đã tạo điều kiện tốt hơn cho đương sự có thể lựa chọn được phương thức phù hợp để thi hành án.

Để đảm bảo quyền lợi của người được thi hành án, người phải thi hành án cũng như tăng cường tính vô tư, khách quan và trách nhiệm của Chấp hành viên, Luật cũng quy định người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền “Yêu cầu thay đổi Chấp hành viên trong trường hợp có căn cứ cho rằng Chấp hành viên không vô tư khi làm nhiệm vụ”. Quy định này phù hợp với quy định hiện hành về thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự…, từ đó đảm bảo sự khách quan, hiệu quả trong tổ chức thi hành án dân sự.

Luật cũng đã bổ sung người được thi hành án được miễn, giảm phí thi hành án trong trường hợp cung cấp thông tin chính xác về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án và trong một số trường hợp khác do Chính phủ quy định. Đây là điểm mới rất tiến bộ, đã bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích của người được thi hành án, giảm tải chi phí và công sức cho người được thi hành án, nhất là đối với người được thi hành án là người già, người nghèo, người ở địa phương khác với người phải thi hành án.

2. Về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong thi hành án dân sự (khoản 2 Điều 12).

Tại khoản 2,Điều 12, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 chỉ quy định chung chung “Viện Kiểm sát các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm sát việc tuân theo pháp luật về thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc thi hành án”, nhưng đến nay, Luật sửa đổi, bổ sung đã quy định chi tiết, cụ thể các quyền của Viện Kiểm sát nhân dân, cụ thể là:

- Kiểm sát việc cấp, chuyển giao, giải thích, sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định của Tòa án;

- Yêu cầu Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp, cấp dưới ra quyết định về thi hành án, gửi các quyết định về thi hành án; thi hành đúng bản án, quyết định; tự kiểm tra việc thi hành án và thông báo kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát nhân dân; yêu cầu cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng có liên quan đến việc thi hành án theo quy định của Luật này;

- Trực tiếp kiểm sát hoạt động thi hành án dân sự của cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới, Chấp hành viên, các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan; ban hành kết luận kiểm sát khi kết thúc việc kiểm sát;

- Tham gia phiên họp của Tòa án xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân;

- Kiến nghị xem xét hành vi, quyết định liên quan đến thi hành án có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng của Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp hoặc cấp dưới, yêu cầu khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý người vi phạm; kiến nghị cơ quan, tổ chức liên quan có sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý khắc phục nguyên nhân, điều kiện dẫn tới vi phạm pháp luật và áp dụng các biện pháp phòng ngừa;

- Kháng nghị hành vi, quyết định của Thủ trưởng, Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp, cấp dưới có vi phạm pháp luật nghiêm trọng xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; yêu cầu đình chỉ việc thi hành, thu hồi, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc thi hành án, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật.

3. Về xác minh điều kiện thi hành án (Điều 44, 44a và Điều 45).

Để phù hợp với thực tiễn, Luật sửa đổi theo hướng chuyển việc xác minh điều kiện thi hành án từ nghĩa vụ của người được thi hành án thành trách nhiệm của Chấp hành viên nhằm giảm bớt khó khăn cho người được thi hành án. Trường hợp kết quả xác minh của Chấp hành viên và người được thi hành án khác nhau hoặc có kháng nghị của Viện kiểm sát thì phải xác minh lại. Việc xác minh lại được tiến hành trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kết quả xác minh do đương sự cung cấp hoặc nhận được kháng nghị của Viện kiểm sát.

Để khắc phục tình trạng tùy tiện trong việc xác minh thi hành án hiện nay, Luật đã quy định yêu cầu Chấp hành viên phải xuất trình thẻ Chấp hành viên khi xác minh điều kiện thi hành án; Chấp hành viên được quyền yêu cầu cơ quan chuyên môn hoặc mời, thuê chuyên gia để làm rõ các nội dung cần xác minh trong trường hợp cần thiết; được trực tiếp xem xét tài sản, sổ sách quản lý vốn, tài sản, xác minh tại cơ quan, tổ chức khác có liên quan đang quản lý, bảo quản, lưu giữ thông tin về tài sản, tài khoản của người phải thi hành án.

Đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan như Bảo hiểm xã hội, Ngân hàng, Tổ chức tín dụng… nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, Luật cũng quy định rõ trách nhiệm phải cung cấp thông tin, thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên và phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin đã cung cấp. Trường hợp từ chối cung cấp thì phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do. Quy định rõ thời hạn phải cung cấp thông tin cho Chấp hành viên và người được thi hành án.

Nhằm khắc phục bất cập trong thực tiễn thực hiện quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008, tại Điều 44a Luật sửa đổi, bổ sung đã làm rõ như thế nào là “chưa có điều kiện thi hành án”. Cụ thể, chưa có điều kiện thi hành án thuộc một trong ba trường hợp sau:

- Một là: Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc có thu nhập chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án, người mà họ có trách nhiệm nuôi dưỡng và không có tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản theo quy định của pháp luật không được kê biên, xử lý để thi hành án;

- Hai là: Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được; phải trả giấy tờ nhưng giấy tờ không thể thu hồi và cũng không thể cấp lại được mà đương sự không có thỏa thuận khác;

- Ba là: Chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án, người chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng.

Việc công khai thông tin của người phải thi hành án trong trường hợp chưa có điều kiện thi hành án cũng được Luật quy định rõ, cụ thể là: Thông tin về tên, địa chỉ, nghĩa vụ phải thi hành án của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án được đăng trên trang thông tin điện tử về thi hành án dân sự và gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xác minh để niêm yết. Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành thì cơ quan thi hành án phải tổ chức thi hành án.

Trên đây là một số điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Với những điểm sửa đổi, bổ sung mang tính cụ thể về quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thi hành án dân sự như trên, hy vọng rằng khi có hiệu lực thi hành, hiệu quả công tác thi hành án dân sự sẽ được nâng lên, quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân được thi hành án sẽ được bảo đảm theo quy định của pháp luật.

Nguồn: vksbacgiang.gov.vn

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của LawNet. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: info@lawnet.vn
804 lượt xem
Liên quan Văn bản
  • Địa chỉ: 19 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286
    E-mail: info@lawnet.vn
Đơn vị chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3935 2079
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;