Dưới đây là quy định hướng dẫn xếp loại chấp hành án phạt tù loại kém đối với phạm nhân, áp dụng từ ngày 15/11/2024.
Hướng dẫn xếp loại chấp hành án phạt tù loại kém đối với phạm nhân (Hình từ internet)
Cụ thể, theo Điều 23 Nghị định 118/2024/NĐ-CP đã có quy định hướng dẫn về xếp loại chấp hành án phạt tù loại kém đối với phạm nhân, theo đó:
Phạm nhân xếp loại kém khi thuộc một trong các trường hợp sau:
(1) Không thuộc các trường hợp xếp loại tốt, khá, trung bình quy định tại các Điều 20, Điều 21, Điều 22 Nghị định 118/2024/NĐ-CP.
(2) Phạm nhân bị xử lý kỷ luật hoặc bị giam giữ riêng do thường xuyên vi phạm Nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân mà chưa được công nhận đã cải tạo tiến bộ.
(3) Phạm nhân phạm tội mới trong thời gian chấp hành án phạt tù thì bị xếp loại kém 04 quý đầu sau khi đến cơ sở giam giữ phạm nhân để chấp hành án theo quyết định thi hành án mới hoặc sau khi cơ sở giam giữ phạm nhân nhận được quyết định thi hành án mới.
(4) Phạm nhân phạm tội mới trong thời gian chờ đi chấp hành án, hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù thì bị xếp loại kém 04 quý đầu sau khi đến cơ sở giam giữ phạm nhân chấp hành án theo quyết định thi hành án mới.
Trường hợp trong thời gian được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù mà vi phạm pháp luật ảnh hưởng đến an ninh trật tự hoặc bỏ trốn và bị Tòa án ra quyết định hủy quyết định hoãn, tạm đình chỉ thì xếp loại kém 02 quý đầu sau khi đến cơ sở giam giữ phạm nhân chấp hành án.
(5) Phạm nhân đã được tha tù trước thời hạn có điều kiện mà phạm tội mới trong thời gian thử thách thì bị xếp loại kém 04 quý đầu sau khi trở lại chấp hành án phạt tù theo quyết định thi hành án mới.
Trường hợp phạm nhân đã được tha tù trước thời hạn có điều kiện vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách và bị Tòa án buộc đưa trở lại cơ sở giam giữ phạm nhân để tiếp tục chấp hành án phạt tù còn lại thì 02 quý đầu bị xếp loại kém.
(6) Phạm nhân không tự nguyện khai báo với cơ sở giam giữ phạm nhân về hành vi phạm tội của mình, nếu bị phát hiện và bị xét xử bằng một bản án khác thì bị xếp loại kém 04 quý sau khi đến cơ sở giam giữ phạm nhân chấp hành án phạt tù theo quyết định thi hành án mới hoặc sau khi cơ sở giam giữ phạm nhân nhận được quyết định thi hành án mới.
(7) Phạm nhân đã bị xét xử bằng một bản án khác với bản án đang phải thi hành nhưng không trung thực khai báo thì bị xếp loại kém 04 quý, kể từ ngày bị phát hiện.
(8) Phạm nhân được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh mà trong thời gian thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh đã bỏ trốn hoặc vi phạm Nội quy cơ sở bắt buộc chữa bệnh từ 02 lần trở lên thì bị xếp loại kém 02 quý đầu sau khi trở lại chấp hành án phạt tù. Trường hợp phạm tội mới trong thời gian thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh thì bị xếp loại kém 04 quý đầu sau khi trở lại chấp hành án phạt tù theo quyết định thi hành án mới.
(9) Phạm nhân đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết, trả lời khiếu nại theo quy định của pháp luật nhưng vẫn cố tình khiếu nại trái pháp luật về bản án, quyết định của Tòa án hoặc khiếu nại về vấn đề khác liên quan đến việc chấp hành án phạt tù của mình thì bị xếp loại kém cho đến khi chấm dứt khiếu nại.
(10) Phạm nhân thực hiện hành vi phạm tội trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam hoặc trong thời gian được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để đảm bảo hoặc bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hoặc trong thời gian thi hành án treo, cải tạo không giam giữ thì bị xếp loại kém 02 quý đầu sau khi đến cơ sở giam giữ chấp hành án phạt tù.
Xem thêm nội dung tại Nghị định 118/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 15/11/2024.
Địa chỉ: | 19 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh |
Điện thoại: | (028) 7302 2286 |
E-mail: | info@lawnet.vn |