Xin hỏi là trong các loại vi phạm thì những vi phạm thường gặp đối với Luật nội dung để bị kháng cáo gồm những vi phạm nào? - Vĩnh Trọng (TP.HCM)
10 dạng vi phạm về Luật nội dung thường gặp trong vụ án hình sự (Hình từ Internet)
Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Hướng dẫn 34/HD-VKSTC ngày 29/11/2022 về kỹ năng phát hiện vi phạm trong giải quyết vụ án hình sự để kháng nghị, kiến nghị.
Theo đó, 10 dạng vi phạm về Luật nội dung thường gặp trong vụ án hình sự, gồm:
10 dạng vi phạm về Luật nội thường gặp
Bao gồm tất cả những vi phạm của cơ quan tố tụng trong việc áp dụng pháp luật về nội dung để giải quyết vụ án; chủ yếu là Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật khác. Trong thực tế thường gặp 10 dạng vi phạm về luật nội dung như sau:
Đây là trường hợp có hành vi phạm tội nhưng Cơ quan điều tra không khởi tố điều tra tội phạm, Viện kiểm sát không truy tố dẫn đến Tòa án không xét xử. Việc bỏ lọt tội phạm xảy ở một số dạng: bỏ lọt người phạm tội, bỏ lọt tội danh hoặc bỏ lọt hành vi phạm tội, không điều tra, truy tố, xét xử về hành vi đó.
- Bỏ lọt người phạm tội thường xảy ra trong vụ án đồng phạm, cơ quan tố tụng bỏ lọt không truy cứu đối với người giúp sức, người thực hiện, người xúi giục, thậm chí cả người chủ mưu, cầm đầu.
- Bỏ lọt tội danh khi một người có nhiều hành vi phạm tội, phạm vào nhiều tội danh khác nhau song cơ quan tố tụng không xem xét, truy cứu hết các tội danh đó mà chỉ truy cứu một số và bỏ lại một số tội danh khác.
Ví dụ như bị cáo có hành vi hiếp dâm sau đó giết nạn nhân, phạm vào hai tội “hiếp dâm” và “giết người”, song cơ quan tố tụng chỉ truy cứu tội “giết người” mà bỏ qua tội “hiếp dâm”.
- Bỏ lọt hành vi phạm tội khi đối tượng thực hiện nhiều hành vi phạm tội nhưng cơ quan tố tụng chỉ điều tra, truy tố, xét xử một số hành vi còn bỏ lại một số hành vi không xem xét.
Ví dụ như bị cáo trộm cắp tài sản năm lần, mỗi lần đều đủ yếu tố cấu thành tội “trộm cắp tài sản”, cơ quan tố tụng chỉ kết luận bị cáo trộm cắp hai lần, dẫn đến việc đánh giá tính chất mức độ phạm tội không chính xác, đưa ra hình phạt quá nhẹ, không nghiêm đối với bị cáo.
Có 4 dạng vi phạm, là các trường hợp kết án người không phạm tội, kết án về tội danh nặng hơn, nhẹ hơn hoặc tội danh ngang bằng nhưng không đúng với hành vi phạm tội của bị cáo.
Trường hợp kết án người không phạm tội không chỉ có lỗi của Tòa án mà trước đó là lỗi của Viện kiểm sát và của Cơ quan điều tra trong trường hợp cơ quan này đề nghị truy tố.
Người đó có thể không có hành vi phạm tội hoặc có hành vi phạm tội và bị kết án nhưng thực tế không đủ chứng cứ chứng minh tội phạm.
Có 02 dạng vi phạm, Tòa án áp dụng khung hình phạt nặng hơn hoặc nhẹ hơn tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Còn có tình trạng Tòa án xử dưới khung hình phạt không đủ căn cứ theo Điều 54 Bộ luật hình sự.
Việc áp dụng sai khung hình phạt như trên thường dẫn đến hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ.
Bên cạnh đó là trường hợp Tòa án áp dụng đúng khung hình phạt, nhưng áp dụng mức phạt cụ thể không phù hợp.
Ví dụ như bị cáo phạm tội “giết người” với khung hình phạt là tù 12 năm, 20 năm, chung thân hoặc tử hình.
Với tính chất mức độ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tập trung nhiều tình tiết tăng nặng, bị cáo phải bị phạt tử hình nhưng Tòa án lại xử phạt bị cáo 20 năm tù;
Hoặc ngược lại bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, chỉ cần phạt bị cáo 20 năm tù, nhưng Tòa án lại xử phạt bị cáo tử hình.
Điều 65 Bộ luật hình sự 2015 quy định về án treo và Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có Nghị quyết 02/2018/ NQ-HĐTP ngày 15/5/2018; Nghị quyết 01/2022/ NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 02/2018 quy định rõ những trường hợp không cho hưởng án treo.
Trên thực tế có những bản án của Tòa án cho bị cáo hưởng án treo khi không đủ các điều kiện quy định tại Bộ luật hình sự và hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán.
Ví dụ như luật quy định bị cáo có tiền án, tiền sự, phạm nhiều tội, phạm tội nhiều lần và các lần phạm tội từ nghiêm trọng trở lên, là đối tượng chủ mưu cầm đầu không được cho hưởng án treo, nhưng Tòa án vẫn cho bị cáo hưởng án treo.
Điều 32 Bộ luật hình sự 2015 quy định về 14 loại hình phạt, trong đó có 7 hình phạt chính và 7 hình phạt bổ sung. Mỗi loại hình phạt được áp dụng với một hoặc một số trường hợp phạm tội nhất định, Tòa án có vi phạm khi áp dụng không đúng trường hợp do luật định.
Ví dụ như hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng nhưng Tòa án lại áp dụng đối với trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Là các trường hợp không tổng hợp hình phạt của nhiều bản án; không tổng hợp phần còn lại của bản án đang được thi hành dở dang;
Không trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam của bị cáo;
Không xác định thời điểm bắt đầu thi hành án;
Không tổng hợp với hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo của bản án đang chấp hành theo đúng quy định của Bộ luật hình sự và trường hợp tổng hợp hình phạt không chính xác về thời gian chấp hành do nhầm lẫn về số liệu.
Là các trường hợp Tòa án xác định trách nhiệm bồi thường đối với bị cáo quá cao hoặc quá thấp; không xác định trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn hoặc hoàn trả, liên đới bồi thường;
Không xác định đúng người có nghĩa vụ và người có quyền được hưởng lợi theo luật định.
Ví dụ như nhân viên gây thiệt hại trong khi làm nhiệm vụ được công ty giao, nhưng không buộc công ty có trách nhiệm bồi thường;
Hoặc đối tượng mạo danh chữ ký của khách hàng trong giấy đề nghị rút tiền để rút tiền của ngân hàng, cần buộc bị cáo bồi thường cho ngân hàng và ngân hàng vẫn phải trả tiền cho khách hàng, nhưng Tòa án lại buộc bị cáo trả cho khách hàng.
Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán chưa nắm rõ được các quy định của pháp luật thuộc các lĩnh vực chuyên ngành như kinh tế, tài chính, ngân hàng, xây dựng, hải quan, quản lý đất đai, quản lý bảo vệ khai thác lâm sản, y tế, giáo dục, từ đó không tìm được hoặc tìm không đúng văn bản, quy định cần áp dụng, dẫn đến xét xử không đúng luật định, ảnh hưởng đến việc xác định trách nhiệm hình sự, dân sự của các bên tham gia tố tụng.
Đó là các biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại;
Buộc công khai xin lỗi; bắt buộc chữa bệnh, được quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự.
Vi phạm của Tòa án có thể là quyết định không tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội hoặc ngược lại là tịch thu công cụ, phương tiện khi không chứng minh được bị cáo dùng vào việc phạm tội.
Xem chi tiết tại Hướng dẫn 34/HD-VKSTC ban hành ngày 29/11/2022.
Ngọc Nhi
Địa chỉ: | 19 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh |
Điện thoại: | (028) 7302 2286 |
E-mail: | info@lawnet.vn |