02/08/2022 09:11

Tổng hợp các bản án về tranh chấp hợp đồng góp vốn mua đất

Tổng hợp các bản án về tranh chấp hợp đồng góp vốn mua đất

Kể từ khi các cơn sốt đất bắt đầu nổi lên, việc góp vốn mua đất xảy ra rất phổ biến giữa những người muốn đầu tư đất nhưng lại không đủ tài chính. Tuy nhiên, việc này cũng xảy ra nhiều rủi ro khi giữa các bên có sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ theo thỏa thuận trong hợp đồng.

Dưới đây là một số bản án về tranh chấp hợp đồng góp vốn mua đất đã được xét xử trên thực tế, mời bạn đọc cùng tham khảo.

1. Bản án 12/2020/DS-ST ngày 21/08/2020 về tranh chấp hợp đồng góp vốn

- Cấp xét xử: Sơ thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh

- Tóm tắt nội dung: Do quen biết, ông Phạm Hồng M và vợ chồng ông Võ Thanh L, bà Trần Thị Kim S góp vốn để mua đất của vợ chồng ông S, bà M với giá chuyển nhượng là 13.500.000.000 đồng, đặt cọc trước 10%. Vợ chồng ông L, bà S nói với ông M là chỉ đủ khả năng góp vốn 30% trên số tiền đặt cọc, chuyển nhượng, còn lại 70% thì ông M góp, lợi nhuận cũng chia theo tỷ lệ góp vốn 30/70 thì ông M đồng ý. Nhưng ông M cho rằng lúc này ông M chưa gom được tiền nên đề nghị vợ chồng ông L, bà S cho mượn góp luôn phần tỷ lệ 70% của ông M, Sau này khi chuyển mục đích sử dụng đất và chuyển nhượng sẽ khấu trừ trả lại vào phần mà vợ chồng ông L, bà S có nghĩa vụ góp. Ông L đặt cọc trước 1.350.000.000 đồng cho ông S, bà M và đã ký kết hợp đồng đặt cọc tại văn phòng công chứng. Tuy nhiên, gần đến ngày thực hiện hợp đồng chuyển nhượng thì ông M cho rằng chưa gom được tiền và sau đó lánh mặt. Vợ chồng ông L có đến gặp vợ chồng ông S để xin thỏa thuận lại nhưng không thành.

- Quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông L và bà S, buộc ông M có nghĩa vụ trả cho của ông L và bà S số tiền 1.018.767.000

2. Bản án 184/2021/DS-PT ngày 13/10/2021 về tranh chấp hợp đồng góp vốn

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk

- Tóm tắt nội dung: Bà T, ông H ký hợp đồng góp vốn với bà Hoàng Y để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Theo nội dung hợp đồng, bà T góp vốn bằng tiền mặt 688.000.000đ; ông H góp vốn bằng tiền mặt 403.000.000đ; bà Y góp vốn bằng quyền sử dụng đất, đối với 9,8ha đất nêu trên và chịu trách nhiệm quản lý tiền vốn, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và xin giấy phép đầu tư xây dựng trang trại. Trước thời điểm ký hợp đồng góp vốn, bà T và ông H đã góp đủ số tiền vốn nêu trên cho bà Y nhưng bà Y không thực hiện việc nhận chuyển nhượng đất và đầu tư xây dựng trang trại như đã cam kết trong hợp đồng mà sử dụng tiền vốn góp của ông, bà vào mục đích cá nhân; Ông H và bà T yêu cầu bà Y trả lại khoản tiền mà ông, bà đã góp cho bà Y nhưng bà Y không trả. Vì vậy, bà T khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết: Buộc bà Y phải trả lại cho bà T  688.000.00đ tiền vốn góp; ông H khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết: Buộc bà Y phải trả lại cho ông 403.000.000đ tiền vốn góp.

- Quyết định: Buộc bà Hoàng Y phải trả lại cho bà Hoàng Thị T số tiền góp vốn 305.000.000đ và phải trả lại cho ông Nguyễn Văn H số tiền góp vốn 53.000.000đ

3. Bản án 60/2019/DSPT ngày 15/10/2019 về tranh chấp hợp đồng góp vốn

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên

- Tóm tắt nội dung: Do tin tưởng bà H1, ông T1 đã đặt cọc cho bà H1 10.000.000đ để bà H1 đi làm sổ đỏ cho ông được đồng sở hữu hoặc đứng tên quyền sử dụng đất, rồi đi vay lãi để trả sau. Sau khi vợ chồng ông đưa cho bà H1 tổng cộng số tiền là 110.000.000đ và đề nghị bà H1 làm thủ tục cho ông đồng sở hữu hoặc tách sổ đỏ đứng tên riêng thì bà H1 lại nói ông phải đưa thêm 40.000.000đ nữa thì mới tách sổ đỏ. Đồng thời, bà H1 đã chuyển toàn bộ mảnh đất đó sang tên con trai bà là T2 và bảo đất này nằm trong quy hoạch, không chuyển đổi được sang đất thổ cư. Ông thấy bà H1 nói trước sau không trung thực và khi đó đang không có chỗ ở nên vợ chồng ông đã xuống nhà bà H1 nhiều lần để đòi lại số tiền đã đưa. Xong, bà H1 lần nữa mãi không chịu trả. Nay ông yêu cầu Tòa án buộc bà H1 trả lại cho ông số tiền 110.000.000đ nếu chậm trả thì bà H1 phải trả lãi suất của ngân hàng cùng thời điểm Tòa án giải quyết.

- Quyết định: Bác yêu cầu khởi kiện của ông T1 về việc yêu cầu bà H1 trả lại 110.000.000đ tiền mua chung đất.

4. Bản án 116/2021/DSPT ngày 17/06/2021 về tranh chấp hợp đồng góp vốn

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ

- Tóm tắt nội dung: Bà Lê Thị Mỹ C rủ ôngP với ông Lê Minh H hùn vốn mua nhà và đất tại số 66/19 với giá 1.000.000.000 đồng. Ông với ông H. hùn 500.000.000 đồng, tỷ lệ 50%, còn thực tế giá bao nhiêu thì tôi không biết. Tại thời điểm này ông H. đang chấp hành án nên ông P có vào thăm hỏi ý kiến thì ông H. đồng ý. Sau đó, ông đã giao toàn bộ việc ký kết hợp đồng, đăng ký sang tên và đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà C. và ông H. Ngày 03/4/2008, ông P với bà C , ông H. có ký hợp đồng góp vốn mua nhà, dưới sự chứng kiến của ông Lê H. N. (Anh hai trong gia đình). Năm 2012, ông P về sinh sống tại nhà số 66/19 và năm 2014 thì nhập hộ khẩu. Khoảng năm 2018, ông được tin Cục Thi hành án dân sự thành phố Cần Thơ phát mãi nhà số 66/19 để trả nợ cá nhân của bà C., ông H.Nay, ông và ông Lê Minh H. khởi kiện yêu cầu buộc ông Nguyễn Đình H., bà Lê Thị Mỹ C. trả 1/2 giá trị nhà và đất 

- Quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn

5. Bản án về tranh chấp hợp đồng góp vốn số 112/2021/DS-PT

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh An Giang

- Tóm tắt nội dung: Do quen biết và tin tưởng nên ông Nguyễn Thanh N với ông Nguyễn Văn N2, bà Lê Thị S có cùng nhau góp vốn nhận chuyển nhượng các thửa đất. Hai bên có ký kết hợp đồng góp vốn thỏa thuận ông N góp số tiền 2.661.750.000 đồng, trong đó 2.500.000.000 đồng có làm văn bản, 161.750.000 đồng không làm văn bản. Theo nội dung hợp đồng góp vốn thì: Ông N2, bà S là người đại diện nhận chuyển nhượng và đứng tên quyền sử dụng đất các thửa đất nêu trên. Sau khi nhận chuyển nhượng, nếu muốn thế chấp, chuyển nhượng các thửa đất này thì ông N2, bà S phải có sự thống nhất của ông N. Đến tháng 01/2021 ông N2 điện thoại thông báo cho ông N biết có người đồng ý mua đất với giá 550.000 đồng/m2. Ông N tin tưởng là thật nên đã đồng ý và nhận số tiền 100.000.000 đồng từ ông N2 giao. Đến ngày 05/2, ông N2, bà S nhận tiền đặt cọc chuyển nhượng các thửa đất trên với giá 650.000 đồng/m2. Như vậy, việc chia tiền cho ông N là không đúng thỏa thuận. Ông N2 cũng tự ý chuyển nhượng cho người khác mà không có ý kiến của ông N nên ông N khởi kiện yêu cầu chia tài sản theo hợp đồng góp vốn với giá trị là 650.000 đồng/m2, nếu không thì phải chia đất cho ông.

- Quyết định: Buộc ông Nguyễn Văn N2, bà Lê Thị S phải có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Thanh N số tiền rút vốn còn lại là 372.634.500 đồng.

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của LawNet. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email:info@lawnet.vn
Phương Uyên
2060


Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký

  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;