Nạn lừa đảo đang trở thành vấn đề nhức nhối và ngày càng gia tăng tại Việt Nam, gây thiệt hại to lớn về tài sản và tinh thần cho người dân.
Theo Điều 174 Bộ luật hình sự Việt Nam 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì tại Việt Nam, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xử lý theo khung hình phạt như sau:
- Khung cơ bản: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với một trong các trường hợp:
+ Tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng
+ Tài sản dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật hình sự Việt Nam 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
- Khung hai: phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với một trong các trường hợp:
+ Có tổ chức;
+ Có tính chất chuyên nghiệp;
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
+ Tái phạm nguy hiểm;
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
- Khung ba: phạt tù từ 07 năm đến 15 năm đối với một trong các trường hợp:
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng
+ Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
- Khung bốn: phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân đối với một trong các trường hợp:
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên
+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Theo đó, nếu có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Việt Nam nhằm chiếm đoạt số tiền từ 2 triệu đồng trở lên thì người đó có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Bên cạnh đó tại Việt Nam, trong trường hợp hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP.
Sau đây là một số bản án liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được xét xử tại Việt Nam:
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 13/2021/HS-ST
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
Trích dân nội dung: Khoảng 20 giờ, ngày 06/8/2021, tại khu vực cổng KCN Quế Võ III thuộc thôn Guột, xã Việt Hùng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Hà Ngọc A đã có hành vi gian dối để anh Thào Seo T tin tưởng, cho mượn 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart màu xanh, số Imei: 358877981357055 đã qua sử dụng trị giá 1.300.000 đồng và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu xám đen, BKS 24B2 - xxxxx đã qua sử dụng trị giá 12.000.000 đồng. Sau khi chiếm đoạt được tài sản của anh T, Ngọc A mang chiếc điện thoại di động trên cầm cố lấy số tiền 1.200.000 đồng và cầm cố chiếc xe mô tô trên lấy số tiền 3.000.000 đồng để tiêu sài cá nhân.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 15/2023/HS-ST
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Pl, tỉnh Bl
Trích dẫn nội dung: Xuất phát do muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 15/7/2021, bị cáo K đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để nhằm chiếm đoạt số tiền 60.800.000 đồng của bị hại TBA. Tại phiên Tòa, bị cáo cũng đã khai nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 39/2021/HS-ST
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông
Trích dẫn nội dung: Bằng thủ đoạn gian dối theo hình thức soạn tin nhắn giả có nội dung đã chuyển tiền đến tài khoản của chị Nguyễn Thị Thúy H để tạo lòng tin, bị cáo chiếm đoạt của chị H tổng số tiền 18.500.000 đồng (Mười tám triệu, năm trăm nghìn đồng), cụ thể: ngày 03/01/2021 bị cáo đã chiếm đoạt của chị H 15.000.000 đồng; ngày 04/01/2021 bị cáo đã chiếm đoạt của chị H 3.000.000 đồng và ngày 07/01/2021 bị cáo đã chiếm đoạt của chị H 500.000 đồng.
Trân trọng!
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về