Chào chị, Ban biên tập xin giải đáp như sau:
Theo quy định tại Điều 23 Luật Quốc phòng Việt Nam 2018 thì lực lượng vũ trang nhân dân gồm thành phần sau đây:
- Quân đội nhân dân;
- Công an nhân dân;
- Dân quân tự vệ.
Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, Đảng và Nhà nước.
- Có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;
- Bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, thành quả cách mạng; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
Như vậy, theo quy định trên thì dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang nhân dân.
Theo quy định tại Điều 27 Luật Quốc phòng Việt Nam 2018 thì dân quân tự thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác;
- Là lực lượng bảo vệ Đảng, chính quyền, tính mạng, tài sản của Nhân dân, tài sản của Nhà nước ở địa phương, cơ sở;
- Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, làm nòng cốt cùng toàn dân đánh giặc ở địa phương, cơ sở khi có chiến tranh;
- Tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, khu vực phòng thủ, phòng thủ dân sự, bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Theo Điều 24 Luật Quốc phòng Việt Nam 2018 quy định nguyên tắc hoạt động và trường hợp sử dụng lực lượng vũ trang nhân dân như sau:
- Hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân phải tuân thủ Hiến pháp Việt Nam 2013, pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
- Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ.
Lực lượng vũ trang nhân dân được sử dụng dụng trong các trường hợp sau:
- Trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng thực hiện theo lệnh của Chủ tịch nước và quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Trong thi hành lệnh thiết quân luật, giới nghiêm thực hiện theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Trong tình trạng khẩn cấp do thảm họa, dịch bệnh nguy hiểm hoặc tình hình đe dọa nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội thực hiện theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp và quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Khi có nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức ban bố tình trạng khẩn cấp thực hiện theo quy định của pháp luật về an ninh quốc gia và quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Khi tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới thực hiện theo quyết định của Hội đồng Quốc phòng và An ninh;
- Khi xảy ra tình huống phức tạp về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống tội phạm; tham gia phòng, chống, khắc phục sự cố, thiên tai, dịch bệnh, việc sử dụng lực lượng vũ trang do Chính phủ quy định.
Như vậy, lực lượng vũ trang nhân dân được sử dụng trong các trường hợp: tình trạng chiến tranh, khẩn cấp quốc phòng; thi hành lệnh thiết quân luật, giới nghiêm; tình trạng khẩn cấp do thảm họa, dịch bệnh; đối phó nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; tham gia bảo vệ hòa bình khu vực và quốc tế; và các trường hợp khác theo quy định của Chính phủ.
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về