Theo quy định tại điều 463 của Bộ luật dân sự 2015 thì:
“Điều 463. Hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”
Đồng thời, Điều 119 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
“Điều 119. Hình thức giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.”.
Ngoài ra, các quy định khác của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành không có quy định bắt buộc hợp đồng vay tài sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực.
Như vậy, việc vay tiền bằng giấy viết tay được xem là một giao dịch dân sự, thể hiện bằng hình thức văn bản và sẽ là căn cứ để khởi kiện ra Toà án của Việt Nam để yêu cầu trả tiền vay.
Dưới đây là một số bản án về cho vay tiền bằng giấy viết tay không có công chứng, chứng thực, các bạn cùng tham khảo:
“Do quen biết nên ngày 12/7/2018, vợ chồng ông có cho ông T vay số tiền 372.000.000đồng, ông T vay để thu mua nông sản; Hai bên thoả thuận lãi suất 1%/tháng, nếu ông T không trả được thì vợ chồng ông có quyền lấy 01 thửa đất cùng tài sản trên đất là căn nhà cấp IV tại thôn 3, xã N, huyện B, tỉnh P; hai bên có làm giấy mượn tiền viết tay, ông đứng tên người cho vay, ông T là người vay. Tuy nhiên, quá thời hạn trả nợ nhưng ông T không trả được khoản tiền gốc và lãi nào như đã thoả thuận. Vợ chồng ông đã nhiều lần yêu cầu ông T trả số tiền đã vay nhưng ông T không trả và cũng không bàn giao đất và nhà ở cho vợ chồng ông mà chuyển nhượng hết cho người khác. Vì vậy, ông khởi kiện yêu cầu ông T trả cho vợ chồng ông số tiền đã vay là 372.000.000 đồng.
Toà án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước tuyên: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của vợ chồng ông H bà M đối với ông T; Buộc ông T phải trả cho vợ chồng ông H bà M số tiền 372.000.000đ (ba trăm, bảy mươi hai triệu đồng).”.
“Ngày 22/8/2008 bà V cùng chồng bà là ông T có cho ông Lương Hùng L và vợ là bà Nguyến Thị Phương L vay số tiền 340.000.000 đồng. Khi vay hai bên có lập giấy tờ viết tay với nhau, lãi suất do hai bên tự thỏa thuận. Cụ thể có giấy vay tiền viết tay ký tên Lương Hùng L và Phương L đề ngày 22/8/2008; giấy cam kết viết tay ký tên Lương Hùng L và bà Nguyễn Thị Phương L đề ngày 08/11/2008. Trong giấy vay tiền thể hiện nội dung khi cần trả tiền, bà và ông T cho cần báo trước ông Long, bà Lan 3 ngày. Trong giấy cam kết ngày 08/11/2008 vợ chồng ông bà L cam kết thanh toán cho vợ chồng bà 50% trong vòng 45 ngày đầu tiên, một tháng tiếp theo cố gắng thực hiện thanh toán phần còn lại. Tuy nhiên, kể từ ngày giao tiền cho ông L, bà L tới nay đã 12 năm, ông L và bà L luôn cố tình không chịu trả nợ. bà đề nghị Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội buộc ông Lương Hùng L và bà Nguyễn Thị Phương L phải trả cho bà số tiền 340.000.000 đồng.
Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị V. Buộc ông Lương Hùng L và bà Nguyễn Thị Phương L phải trả cho bà V số tiền 340.000.000 (Ba trăm bốn mươi triệu) đồng.”.
“Vào ngày 05/9/2019, bà Bùi Thị Thúy P có cho bà Hoàng Thị T vay số tiền 650.000.000 đồng. Khi vay có làm giấy viết tay, mục đích vay là để đáo hạn ngân hàng nên các bên thỏa thuận 03 ngày sẽ trả, khi vay không thỏa thuận lãi suất. Tuy nhiên, đến hạn trả nợ mà bà T không trả tiền theo thỏa thuận mặc dù bà P đã nhiều lần yêu cầu bà T nhưng bà T khất lần và trốn tránh không trả tiền. Vì vậy, bà P khởi kiện yêu cầu bà T phải có nghĩa vụ trả cho bà P số tiền vay gốc 650.000.000đồng và số tiền lãi chậm trả tạm tính từ ngày vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho đến tháng 11/2020 với lãi suất 1,25%/tháng là 84.500.000đồng. Tổng cộng là 734.500.000 đồng.
Toà án tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Bùi Thị Thúy P. Buộc bà Hoàng Thị T phải có nghĩa vụ trả cho bà Bùi Thị Thúy P tổng số tiền 763.704.500 đồng. Trong đó số tiền nợ gốc là 650.000.000đồng và tiền lãi là 113.704.500 đồng.".
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về