Tại Việt Nam, tùy vào mức độ vi phạm mà người có hành vi bắt cóc tống tiền có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt khác nhau, mức cao nhất có thể lên đến tù chung thân.
Căn cứ tại Điều 169 Bộ luật Hình sự Việt Nam 2015 (sửa đổi năm 2017) quy định về khung hình phạt tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản như sau:
- Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: Người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản.
- Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Có tổ chức;
+ Có tính chất chuyên nghiệp;
+ Dùng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
+ Đối với người dưới 16 tuổi;
+ Đối với 02 người trở lên;
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
+ Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
+ Tái phạm nguy hiểm.
- Phạt tù từ 10 năm đến 18 năm: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
+ Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
- Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
+ Làm chết người;
+ Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
- Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: Người chuẩn bị phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
Theo đó, nếu có hành vi bắt cóc tống tiền tại Việt Nam thì người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt từ 02 năm tù đến tù chung thân, tùy vào mức độ hành vi vi phạm.
Ngoài ra, người có hành vi bắt cóc tống tiền còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Sau đây là một số bản án liên quan đến hành vi bắt cóc tống tiền được Tòa án tại Việt Nam xét xử:
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Quận 8, thành phố Hồ Chí Minh
- Trích dẫn nội dung: Ngày 06/02/2023, tại quán cà phê ven đường, các bị cáo Lê Minh Q và Phạm Đăng H có hành vi đánh đập, khống chế anh Đinh Hoài B đưa lên xe chở đi nhiều địa điểm khác nhau nhằm mục đích gây áp lực buộc anh B phải điện thoại yêu cầu bà Đặng Thị Thu V (mẹ ruột anh B) và ông Trần Văn N (cha dượng anh B) phải giao số tiền 40.000.000 VNĐ cho Q, thì Q mới chịu thả anh B về. Đến khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 06/02/2023, khi Q, H đưa anh B đến gần ngã tư chợ Bình Điền, Phường 7, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Đội cảnh sát hình sự Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện bắt giữ.
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận
- Trích dẫn nội dung: Vào ngày 25/8/2020 trên đường Quốc lộ 1A trước cổng Khu công nghiệp, bị cáo U đã có hành vi bắt giữ trái phép đối với anh Phạm Hoài P đưa về nhà riêng của ông Nguyễn Văn K. Tại nhà của ông K, bị cáo U cùng với bị cáo H có hành vi khống chế không cho anh P trốn thoát, buộc anh P gọi điện và nhắn tin cho mẹ ruột là bà Hồ Thị Ngọc T mang tiền đến trả nợ; bị cáo H đã gọi điện thoại, nhắn tin uy hiếp tinh thần và yêu cầu bà T mang số tiền 10.000.000 VNĐ đến trả nợ thay cho anh P thì mới đồng ý thả anh P, do lo sợ tính mạng của anh P có thể bị đe dọa nên bà T đã đồng ý đưa 10.000.000 VNĐ cho các bị cáo, nên khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày bị cáo H đã chở anh P đến địa điểm đã hẹn với bà T tại Trạm xăng dầu số 14 để nhận tiền, khi bị cáo H đang nhận số tiền 10.000.000 VNĐ bà T giao thì bị bắt quả tang.
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
- Trích dẫn nội dung: Do Nguyễn Nhật T nợ Nguyễn Thanh M số tiền 270.000.000 VNĐ, nên chiều ngày 11/11/2015, tại quán cà phê VL, Nguyễn Thanh M, Trần Văn Th, Trịnh Văn L và Lê Văn V đã có hành vi ép buộc Nguyễn Nhật T lên xe ô tô đưa về nhà nghỉ với mục đích bắt giữ để T phải trả nợ. Sau khi biết T không có khả năng trả nợ thì cả bọn thay nhau trông coi, không chế, đưa T đi nhiều nợ nhằm trốn tránh sự phát hiện của Công an đồng thời canh giữ không cho T bỏ trốn để đe dọa buộc gia đình T phải trả nợ thay cho T. Nguyễn Thanh M đã liên lạc với ông Nguyễn Công B (là cha ruột của Nguyễn Nhật T) yêu cầu phải mang tiền đến chuộc T.
Ngày 13/11/2015, tại quán cà phê V, Nguyễn Thanh M và Trần Văn Th bị bắt quả tang khi đang nhận số tiền 50.000.000 VNĐ từ gia đình bị hại. Tại quán cà phê VL, Lê Văn V sau khi nghe anh T nói chưa có tiền trả cho M đã giơ tay định đánh T nhưng được người khác can ngăn, sau đó tham gia đưa T từ nhà nghỉ đến quán nhậu vào đêm ngày 12/11/2015 và trực tiếp gọi điện đe dọa ông Nguyễn Công B.
Trân trọng!
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về