Quyết định giám đốc thẩm 12/2016/HS-GĐT ngày 04/08/2016 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và trốn thuế

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 12/2016/HS-GĐT NGÀY 04/08/2016 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ TRỐN THUẾ 

Với Hội đồng giám đốc thẩm gồm có mười bốn thành viên tham gia xét xử, do ông Nguyễn Hòa Bình, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm Chủ tọa phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa là bà Nguyễn Thị Yến, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Thư ký ghi biên bản phiên tòa là ông Hà Hồng Sơn, Thẩm tra viên.

Ngày 04 tháng 8 năm 2016, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

Trần Thị Quý P sinh năm 1969; trú tại: đường C, phường D, thành phố E, tỉnh Gia Lai; khi phạm tội là Giám đốc Công ty cổ phần xây dựng và thương mại B; con ông Trần Ngọc T (đã chết) và bà Đặng Thị T (sinh năm 1948); có chồng và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giam ngày 22-10-2012.

Nguyên đơn dân sự:

1. Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh Gia Lai;

2. Chi Cục thuế thành phố E, tỉnh Gia Lai.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: gồm có 16 người, trong đó có ông Trần Thế V và bà Đặng Thị Lan P cùng trú tại: đường M, phường K, thành phố E, tỉnh Gia Lai.

NHẬN THẤY

Công ty cổ phần xây dựng thương mại B (Công ty B) được thành lập theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 3903000143 ngày 21-8-2007 của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Gia Lai, ngành nghề kinh doanh chính là thi công các công trình giao thông, xây dựng điện… Số vốn điều lệ là 50.000.000.000 đồng, do Trần Thị Quý P làm Giám đốc có trụ sở tại đường C, phường D, thành phố E, tỉnh Gia Lai. Tuy là Công ty cổ phần nhưng các cổ đông khác không tham gia vào việc điều hành Công ty mà do Trần Thị Quý P điều hành và quyết định mọi việc.

Quá trình điều tra xác định được trong quá trình thi công 11 công trình từ năm 2009 đến năm 2011, Trần Thị Quý P đã có hành vi phạm tội như sau:

1/ Về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Trần Thị Quý P:

Từ năm 2009 đến năm 2011, Công ty B có quan hệ mua bán vật liệu xây dựng với Doanh nghiệp tư nhân do Võ Thị T làm chủ Doanh nghiệp, Doanh nghiệp T do ông Nguyễn Quốc T là chồng của Võ Thị T làm chủ doanh nghiệp (nhưng Võ Thị T là người trực tiếp điều hành, phụ trách kinh doanh) và mua bán nhiên liệu với Doanh nghiệp P do Huỳnh Thị Kim A làm chủ doanh nghiệp.

Quá trình quan hệ mua bán vật tư, các doanh nghiệp này có hành vi xuất hóa đơn giá trị gia tăng khống cho Trần Thị Quý P. P đã dùng những hóa đơn khống này để kê khai hoàn thuế khấu trừ. Trần Thị Quý P đã dùng thủ đoạn sử dụng 67 hóa đơn giá trị gia tăng bất hợp pháp (hóa đơn khống hoàn toàn và khống một phần) để kê khai khấu trừ thuế và làm thủ tục hoàn thuế của 02 năm 2010 và 2011, chiếm đoạt của Nhà nước số tiền là 1.652.773.415 đồng (theo Kết luận giám định tài chính ngày 16-10-2012 và Kết luận giám định bổ sung ngày 12-4-2013).

2/ Về hành vi Trốn thuế của Trần Thị Quý P:

Tại  Kết  luận  giám định  bổ  sung ngày 12-4-2013 đã xác định:  Trong 1.991.262.018 đồng tiền thuế gây thiệt hại cho Nhà nước, có 10 hóa đơn với số tiền thuế 140.781.700 đồng được kê khai khấu trừ thuế trong các tháng 6, 7 năm 2010 và tháng 10, 11 năm 2011, không nằm trong hai kỳ hoàn thuế của Công ty B để trốn thuế với số tiền là 140.781.700 đồng.

3/ Về hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Trần Thị Quý P:

Từ tháng 11/2008 đến năm 2011, Công ty B do Trần Thị Quý P làm giám đốc trúng thầu nhiều công trình trên địa bàn tỉnh Gia Lai với tổng số tiền đầu tư là 112.324.645.000 đồng, Công ty B đã tạm ứng số tiền là 49.114.900.000 đồng.

Quá trình rút tiền tạm ứng, Trần Thị Quý P không nhập quỹ, không hạch toán trên sổ sách dẫn đến không có khả năng trả nợ tiền tạm ứng cho các chủ đầu tư; thông qua hành vi gian dối và sử dụng tài sản không hợp pháp, P chiếm đoạt của Ban quản lý các dự án huyện S và huyện K số tiền (theo kết luận giám định) là 12.685.385.342 đồng.

* Về khoản tiền mua xe ô tô Volkswagen Das Package, biển kiểm soát 81A-002.78:

Ngày 28-10-2010, Trần Thị Quý P mua xe ô tô Volkswagen Das Package, biển kiểm soát 81A-00278 với giá 1.525.000.000 đồng; ngày 24-12-2010 P dùng số tiền 152.500.000 đồng nộp thuế trước bạ để đăng ký xe. Theo P khai, sau khi mua xe và làm giấy tờ đăng ký xe xong thì P đã tặng cho ông Trần Thế V - Giám đốc Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh X, nhưng Giấy đăng ký xe vẫn mang tên Công ty B. Bà Đặng Thị Lan P (vợ ông Trần Thế V) khai bà đã mua xe này của P với giá 01 tỷ đồng (gồm 750.000.000 đồng bà Đặng Thị Lan P nộp tiền mặt vào ngân hàng để rút giấy tờ xe mà P đã thế chấp trong ngân hàng; cấn trừ 200 triệu đồng tiền sắt mà P đã mua của bà Lan P nhưng chưa trả tiền và bà Lan P đã trả cho P thêm 50 triệu đồng tiền mặt). Quá trình điều tra xác định được sau khi mua xe và làm xong giấy tờ đăng ký xe, P đã giao xe cho gia đình ông Trần Thế V sử dụng từ ngày 29-01-2011.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2014/HSST ngày 12/09/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139; điểm a khoản 4 Điều 140; các điểm b, p khoản 1 Điều 46; các điểm g, i khoản 1 Điều 48; Điều 47 (đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”) Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Thị Quý P 11 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 13 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 161; các điểm b, p khoản 1 Điều 46; Điều 31 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Thị Quý P 09 tháng cải tạo không giam giữ chuyển sang thành 03 tháng tù về tội “Trốn thuế”; áp dụng Điều 50 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt, buộc Trần Thị Quý P phải chấp hành hình phạt chung cho cả ba tội là 24 năm 03 tháng tù.

Về dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự, buộc Trần Thị Quý P phải trả lại cho Chi cục thuế thành phố E, tỉnh Gia Lai số tiền đã chiếm đoạt là 1.652.773.425 đồng và số tiền trốn thuế là 140.781.700 đồng.

Buộc Trần Thị Quý P phải trả lại cho Ban quản lý các dự án đầu tư xây dựng huyện K, tỉnh Gia Lai số tiền tạm ứng là 8.642.358.000 đồng.

Về xử lý vật chứng có liên quan đến vụ án: “Căn cứ Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tuyên hủy Hợp đồng ủy quyền ngày 30/9/2011 giữa bị cáo Trần Thị Quý P và bà Đặng Thị Lan P.

Tuyên tịch thu bán đấu giá chiếc xe Volkswagen Tiguan Das Package màu đỏ, Giấy đăng ký số 004993, số máy: CAW 093082, số khung: 5NZAW 090148, biển kiểm soát 81A-00278 do Công ty B đứng tên sở hữu để bảo đảm cho công tác thi hành án đối với bị cáo P.

Đối với số tiền bà Đặng Thị Lan P bỏ ra mua xe 750.000.000 đồng, tiền bán sắt 200.000.000 đồng và 50.000.000 đồng bà Lan P đưa trực tiếp cho bị cáo P, vấn đề này sẽ được giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi các bên có yêu cầu.

Tiếp tục bảo thủ số tiền 200.000.000 đồng do bà Trần Thị X nộp để  bảo đảm cho công tác thi hành án đối với bị cáo Trần Thị Quý P”.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về tội danh, hình phạt, trách nhiệm dân sự đối với bị cáo Võ Thị T, về án phí, quyền kháng cáo, kháng nghị.

Ngày 22-9-2014, Trần Thị Quý P kháng cáo xin giảm hình phạt.

Ngày 26-9-2014, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Đặng Thị Lan P kháng cáo với nội dung đề nghị được giữ lại chiếc xe ô tô biển kiểm soát 81A-00278.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 90/2015/HSPT ngày 20/03/2015, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng quyết định sửa án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Trần Thị Quý P và phần xử lý vật chứng liên quan đến vụ án; cụ thể: xử phạt Trần Thị Quý P 08 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 12 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và 09 tháng cải tạo không giam giữ chuyển thành 03 tháng tù về tội “Trốn thuế”; tổng hợp hình phạt chung cho cả ba tội, buộc bị cáo Trần Thị Quý P phải chấp hành là 20 năm 03 tháng tù.

Về vật chứng liên quan đến vụ án: Giao cho bà Đặng Thị Lan P chiếc xe ô tô Volkswagen Tiguan Das Package, biển số 81A-00278, giấy đăng ký số 003993-Số máy: CAW093082-Số khung: 5NZAW 090-148. Bà Đặng Thị Lan P được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để hoàn chỉnh thủ tục sang tên sở hữu.

Đối với số tiền bán sắt 200.000.000 đồng và 50.000.000 đồng tiền mặt giao dịch giữa bà Đặng Thị Lan P và bị cáo Trần Thị Quý P sẽ được giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi các bên có yêu cầu.

Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số 02/QĐ-VKSTC-V7 ngày 08-3-2016, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định: Kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm số 90/2015/HSPT ngày 20-3-2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về phần xử lý vật chứng là chiếc xe ô tô biển kiểm soát 81A-00278 được giao dịch giữa bị cáo Trần Thị Quý P và bà Đặng Thị Lan P. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tuyên bố hủy Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về phần xử lý vật chứng là chiếc xe ô tô nói trên để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Tòa án cấp phúc thẩm xử phạt Trần Thị Quý P 20 năm 03 tháng tù về các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Trốn thuế” là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tuy nhiên, về phần xử lý vật chứng liên quan trong vụ án là chiếc xe ô tô Volkswagen Tiguan Das Package, biển kiểm soát 81A-00278, Tòa án cấp phúc thẩm giao trả cho bà Đặng Thị Lan P là chưa phù hợp với quy định của pháp luật, bởi vì:

Tại Cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm, Trần Thị Quý P khai đã sử dụng 1.667.500.000 đồng trong tổng số tiền tạm ứng của Ban quản lý các dự án đầu tư xây dựng huyện K để mua chiếc xe này tặng cho ông Trần Thế V, nguyên Giám đốc sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh X nhằm mục đích tạo mối quan hệ để ông V giúp đỡ Công ty của bị cáo trong quá trình hoạt động. Lời khai trên của Trần Thị Quý P phù hợp với thực tế là sau khi mua xe ô tô và làm các thủ tục đăng ký lấy biển số xe xong, Trần Thị Quý P đã giao chiếc xe này cho gia đình ông Trần Thế V sử dụng ngay. Từ lúc mua xe đến lúc vụ án bị phát hiện, không có cá nhân nào trong gia đình P hoặc nhân viên của Công ty B sử dụng. Chiếc xe ô tô biển kiểm soát 81A-00278 đứng tên Công ty B do Trần Thị Quý P làm giám đốc đã được mua từ nguồn tiền tạm ứng của Ban quản lý các dự án đầu tư xây dựng huyện K, hiện nay Công ty B của Trần Thị Quý P còn nợ tiền tạm ứng của Ban quản lý dự án K và không có khả năng thanh toán nợ. Vì vậy, Hợp đồng mua bán xe số 01/2011/HĐMB ngày 24-9-2011 và Hợp đồng ủy quyền xe ô tô ngày 30-9-2011 giữa Trần Thị Quý P và bà Đặng Thị Lan P có nội dung trái pháp luật. Chiếc xe ô tô này là vật chứng của vụ án nên theo quy định tại Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự cần phải được thu hồi để bảo đảm việc trả nợ của Công ty B đối với khoản tiền đã tạm ứng của các Ban quản lý dự án và bảo đảm thi hành án đối với bị cáo Trần Thị Quý P.

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị Cơ quan điều tra Công an tỉnh Gia Lai và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai tiếp tục điều tra làm rõ các nội dung kiến nghị của Đoàn công tác số 3- Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng về việc ông Trần Thế V có vi phạm trong đấu thầu các dự án đầu tư tại tỉnh Gia Lai hay không, việc bị cáo Trần Thị Quý P có chuyển 50 triệu đồng vào tài khoản của ông V để hỗ trợ ông V đi công tác, việc ủy quyền sau đó lại bán xe cho vợ ông V; việc 03 cán bộ thuế của Chi cục thuế thành phố E tiếp tay cho Trần Thị Quý P chiếm đoạt trên 1,1 tỷ đồng tiền thuế của Nhà nước.

Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự;

QUYẾT ĐỊNH

Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 90/2015/HSPT ngày 20-3-2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về phần xử lý vật chứng là chiếc xe ô tô biển kiểm soát 81A-00278 được giao dịch giữa bị cáo Trần Thị Quý P và bà Đặng Thị Lan P; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn



1255
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Quyết định giám đốc thẩm 12/2016/HS-GĐT ngày 04/08/2016 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và trốn thuế

Số hiệu:12/2016/HS-GĐT
Cấp xét xử:Giám đốc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân tối cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/08/2016
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;