TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
QUYẾT ĐỊNH GĐT 298/2023/DS-GĐT NGÀY 13/12/2023 VỀ TRANH CHẤP LỐI ĐI CHUNG
Ngày 13 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về “Tranh chấp lối đi chung” giữa các đương sự:
1/Nguyên đơn:
1.1/Vũ Văn H1, sinh năm 1977;
1.2/Bà Trần Thị V, sinh năm 1982;
1.3/Ông Hoàng Bá T, sinh năm 1983;
1.4/Bà Vũ Thị H, sinh năm 1962;
Cùng địa chỉ: đội E, thôn C, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.
2/Bị đơn:
2.1/Ông Phạm Hữu T1, sinh năm 1973;
2.2/Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1969;
Cùng địa chỉ: đội E, thôn C, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.
3/Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước.
Địa chỉ: thôn T, xã p, huyện B, tỉnh Bình Phước.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn là ông Vũ Văn H1, ông Hoàng Bá T, bà Vũ Thị H và bà Trần Thị V (do ông Vũ Văn H1 làm đại diện), trình bày yêu cầu khởi kiện như sau:
- Ông H1, bà V có phần đất diện tích là 20.808m2 tọa lạc tại thôn I, xã Đ, huyện P (cũ), tỉnh Bình Phước, được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện P (cũ) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) vào ngày 10/6/2004; đến ngày 08/12/2008 thì được cấp đối với diện tích là 27.039,9m2 theo GCNQSDĐ số 2064/ĐS do UBND huyện P (cũ) (nay là huyện B) cấp cho hộ ông H1 và bà V.
Vào năm 2001, gia đình ông H1 tiếp tục nhận chuyển nhượng phần đất diện tích 8.741,4m2 từ bà Nguyễn Thị Đ và được UBND huyện B cấp GCNQSDĐ;
- Gia đình bà Vũ Thị H có phần đất diện tích là 25.050,3m2 tọa lạc tại thôn C, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước. Nguồn gốc tạo lập phần đất này là do gia đình bà H nhận chuyển nhượng từ ông Nguyễn Duy T3 và bà Nguyễn Thị T4 từ năm 2002, đã được UBND huyện B cấp GCNQSDĐ số 00623/CN ngày 26/06/2012 và sử dụng ổn định cho đến nay;
- Vào năm 2008, gia đình ông T-bà H2 nhận chuyển nhượng của ông Phạm Văn V1-bà Nguyễn Thị Kim O hai phần đất ( diện tích là 12.206,7m2 và 8.743.9m2), tọa lạc tại thôn C, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước, đã được UBND huyện B cấp GCNQSDĐ vào ngày 08/09/2011.
Những hộ dân có rẫy ở phía trong vẫn thường sử dụng con đường đi đã có từ trước. Trước đây, con đường này bắt đầu từ đầu đường liên thôn rộng 04m, ở giữa phần đất của ông Nguyễn Văn P và ông Điều S, ông T1, rồi chạy dài đến phần đất của ông T khoảng 296,2m.
Đến năm 2011, ông Nguyễn Hữu T5 và bà Nguyễn Thị Tuyết n chuyển nhượng phần đất có diện tích là 19.202,7m2 từ ông P, sau đó đã được cấp GCNQSDĐ. Tuy nhiên, GCNQSDĐ không thể hiện có con đường đi. Đến cuối năm 2011, ông T5-bà T2 xây ụ đá và rào lại con đường. Đến năm 2017 ông T5-bà T2 dùng máy múc hai bên đường đi, không cho những hộ dân liền kề sử dụng con đường này nữa.
Con đường nói trên là lối đi duy nhất mà các hộ dân (có đất phía trong) dùng làm lối đi vào đất sản xuất của gia đình mình.
Vì vậy, nguyên đơn khởi kiện, yêu cầu ông T5 và bà T2 phải khôi phục lại con đường đi có chiều rộng 4m x chiều dài 296,2m, tính từ đầu đường cho đến giáp ranh phần đất của gia đình ông T.
Bị đơn là ông Phạm Hữu T1-bà Nguyễn Thị T2 trình bày ý kiến như sau:
Những nguyên đơn đều thừa nhận rằng phần lối đi tranh chấp, trước đây là phần đất của ông Nguyễn Văn P, cho các hộ dân đi nhờ qua (lối đi giữa hai hàng điều), bây giờ là đất của ông T1-bà T2, không Phải là con đường công cộng. Nếu phía nguyên đơn đồng ý thương lượng và để bảo đảm cho các hộ dân ở phía trong có đường đi vào đất của mình, ông T1-bà T2 đồng ý bán phần đất làm con đường đi, nhưng ở vị trí giáp ranh với phần đất của nhà ông D.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện B, tỉnh Bình Phước trình bày ý kiến như sau:
Hộ ông Phạm Hữu TI được cấp hai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như sau: (1)GCNQSDĐ số 2111/CN ngày 09/06/2006 (cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo số liệu đo đạc độc lập), thể hiện có đường đi sản xuất ở phía Bắc, rộng 4m tại sơ đồ thửa đất ở trang 3; (2)GCNQSDĐ số 2110/ĐL ngày 09/06/2006 (cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo số liệu đo đạc độc lập), thể hiện một đoạn đường đất dài 30m rộng khoảng 2m ở phía Bắc tại sơ đồ thửa đất ở trang 3.
Trong quá trình đo vẽ, lập bản đồ địa chính chính quy, đơn vị đo đạc đã không vẽ đoạn đường đi theo GCNQSDĐ cũ. Vì vậy, khi cấp đổi GCNQSDĐ (sang bản đồ chính quy) thì không thể hiện rằng có đường đi trên sơ đồ thửa đất.
Để bảo đảm tính pháp lý của đoạn đường thể hiện trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũ và phù hợp với tình trạng thực tế sử dụng đất, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện B, tỉnh Bình Phước đề nghị Tòa án cho khôi phục đoạn đường thể hiện trong GCNQSDĐ cũ của hộ ông Phạm Hừu Tl, công nhận đoạn đường này để điều chỉnh lại GCNQSDĐ; đối với phần đường còn lại có trên thực tế, các hộ dân có nhu cầu đi lại, hiện đang tranh chấp, mà chưa thể hiện trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì các hộ dân phải thỏa thuận với nhau theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Việc cấp GCNQSDĐ đối với thửa số 139 vào năm 2002 cho ông Phan Văn T6 và năm 2006 cho ông T1-bà T2, là sổ đo độc lập, nghĩa là đo theo yêu cầu của người dân, nên trong thực tế có con đường đi sản xuất rộng 4m, cán bộ đo đạc ghi nhận và xác nhận trong sơ đồ đo đạc; các hộ dân giáp ranh liền kề và người sử dụng đất ký xác nhận vào biên bản thì Ủy ban nhân dân (UBND) huyện B mới cấp GCNQSDĐ cho người dân. Bà T2-ông T1, khi ký xác nhận, đều biết rằng có con đường thể hiện trên sơ đồ nhưng không có ý kiến gì; đối với thửa số 135, trình tự cấp GCNQSDĐ cũng như vậy. Nếu chuyển nhượng nguyên thửa đất, thì sẽ không tiến hành đo đạc lại.
Vào năm 2007, thực hiện việc đo đạc lập sơ đồ chính quy, thì quy trình đo đạc là cán bộ đo đạc phải cùng với hộ dân có đất, để đo đạc lại và người có đất giáp ranh sẽ tiến hành chỉ mốc đo, xác định ranh giới. Vào thời điểm này (năm 2007), không biết vì lý do gì, khi đo đạc lại sơ đồ chính quy, đã không ghi nhận có đường đi. Vì vậy, khi cấp đổi lại GCNQSDĐ cho ông T1-bà T2, đã không thể hiện có con đường đang tranh chấp giữa các đương sự. Bên cạnh đó, vào năm 2008 khi ông P xin cấp GCNQSDĐ thì UBND huyện B căn cứ sơ đồ chính quy đã cấp, nên cũng không thể hiện con đường đi này; đây là sai sót của UBND huyện B.
Nhu cầu sử dụng con đường để phục vụ việc sản xuất của các hộ dân phía trong, là chính đáng. Vì vậy, UBND huyện B đề nghị Tòa án cho phép mở lại con đường như trước đây. Trên cơ sở phán quyết của Tòa án, thì UBND huyện B sẽ tiến hành thu hồi GCNQSDĐ, điều chỉnh lại.
Người làm chứng là ông Nguyễn Duy T3, ông Phạm Văn V1, Ông Trần Văn H3 trình bày ý kiến như sau:
Con đường mà ông H1, bà V, bà H, ông T sử dụng, là nằm trên đỉnh đồi đi qua phần đất của nhà ông P.
Từ năm 1993, khi ông Nguyễn Duy T3, ông Phạm Văn V1, ông Trần Văn H3 đi khai hoang đất, thì đã sử dụng con đường này (vào lúc đó, con đường này là đường rừng, ông T3, ông V1, ông H3 khai phá phần đất phía trong, còn bên ngoài là đất hoang).
Đến năm 2001, ông Điều S sử dụng máy cày, để cày phần đất phía ngoài, trồng cây ngắn ngày, sau đó trồng điều; con đường thì vẫn còn, người dân có đất phía trong vẫn sử dụng xe be, máy cày, xe tải chạy vào rẫy để phun thuốc, chở phân và chở nông sản.
Đến năm 1998, khi đất của ông T3, ông V1, ông H3 được cấp GCNQSDĐ, phần đất phía ngoài vẫn là đất hoang. Năm 2001-2002, ông P mua lại phần đất này (phần đất phía ngoài), thì ông T3, ông V1, ông H3 vẫn sử dụng con đường để đi lại. Nhưng đến khi ông T1-bà T2 mua lại đất của ông P, thì mới xảy ra tranh chấp như hiện nay.
Người làm chứng bà Nguyễn Thị H4 trình bày ý kiến như sau:
Vào năm 2002, gia đình bà H4 đổi đất cho ông La Văn S1 và nhận phần đất có diện tích là 19.202m2, trên đất đã trồng điều.
Khi nhận đất, trên đất đã có 01 con đường đi (vào khoảng 03m) chạy giữa hai hàng điều để gia đình bà H4 và các hộ dân có đất phía trong, cùng sử dụng, trong đó có hộ ông H1, ông T1, bà T2.
Theo bà H4, con đường nói trên không Phải là đường công cộng, mà nằm trên phần đất của gia đình bà H4 đã được UBND huyện B cấp GCNQSDĐ. Đến năm 2009, bà H4 chuyển nhượng đất cho ông T1-bà T2, gồm cả con đường mà hiện nay đang tranh chấp.
Tại bản án số 25/2018/DS-ST ngày 28/12/2018, Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xét xử như sau:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn Vũ Văn H1, bà Trần Thị V, bà Vũ Thị H, ông Hoàng Bá T Buộc bị đơn ông Phạm Hữu T1, bà Nguyễn Thị T2 trả lại con đường có diện tích 1.178,3m2, có chiều ngang 04m, chiều dài 297,52m2, tọa lạc tại thôn C, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước tại thửa số 124, tờ bản đồ so 03; vị trí xác định: Phía Bắc giáp đất của ông T1, bà T2 (phần diện tích đất nhận chuyển nhượng của ông P); phía Nam giáp các thửa đất 130 của ông S, 135 và 139 của ông T1, bà T2, phía Đông giáp đường T, phía Tây giáp đất của ông Hoàng Bá T để làm lối đi chung (Kèm theo sơ đồ đo đạc ngày 21/01/2018 của Chỉ nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B).
Buộc các nguyên đơn có nghĩa vụ bồi thường giá trị tài sản cho ông Phạm Hữu T1, bà Nguyễn Thị T2 gồm tiền giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất với tổng số tiền là 66.772.500 đồng. Trong đó ông Vũ Văn H1 và bà Trần Thị V phải chịu 22.257.500 đồng, ông Hoàng Bá T chịu 22.257.500 đồng; bà Vũ Thị Hồng C 22.257.500 đồng.
Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ ông Phạm Hữu T1 và bà Nguyễn Thị T2 thuộc thửa số 124 tờ bản đồ số 03 thuộc thôn C, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước cho phù hợp với diện tích đất mà hộ Ông Phạm Hữu T1, bà Nguyễn Thị T2 sử dụng trên thực tế sau khi đã mở lối đi chung.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định pháp luật.
Tại bản án số 51/2019/DS-PT ngày 17/5/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử như sau:
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Vũ Văn H1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Phạm Hữu T1, bà Nguyễn Thị Tuyết. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2018/DSST ngày 25/12/2018 của Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn Ông Vũ Văn H1, bà Trần Thị V, bà Vũ Thị H, Ông Hoàng Bá T.
Buộc bị đơn ông Phạm Hữu T1, bà Nguyễn Thị T2 trả lại con đường dị có diện tích 1.178,3m, chiều ngang 04m, chiều dài 297,52m, tọa lạc tại thôn C, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước thuộc thửa so 124, tờ bản đồ số 03; vị trí trí xác định: Phía Bắc giáp thửa đất số 124 của Ông T1, bà T2; Phía Nam giáp các thửa đất 130 của Ông Điểu S và thửa số 135, 139 của Ông T1, bà T7; Phía Đông giáp đường T; Phía Tây thửa đất số 136 của ông Hoàng Bá T (Kèm theo sơ đồ đo dại ngày 25/01/2018 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B).
Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước cấp đổi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B1: 627408 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 16/8/2011 cho hộ ông Phạm Hữu T1 và bà Nguyễn Thị T2 sau khi trừ đi phần diện tích đất đường đi 1.178,3m2”.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Vào ngày 08/12/2022, Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bù Gia Mập ra văn bản số 43/CV-CCTHADS, gửi Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước, đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước kháng nghị bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước (vì không thể thi hành bản án đã tuyên).
Vào ngày 04/01/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước ra văn bản số 04/TB-VKS-DS, kiến nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị bản án phúc thẩm nói trên theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại quyết định số 222/QĐ-VKS-DS ngày 18/09/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị bản án phúc thẩm nói trên, yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao hủy bản án phúc thẩm để xét xử lại, lý do như sau:
- Bản án phúc thẩm (của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước) tuyên buộc ông T1-bà T2 phải trả lại con đường đi (diện tích là 1.178,3m2), là đúng, nhưng chưa giải quyết về những tài sản mà họ có trên diện tích đất này (83 cây cao su trồng vào năm 2012; 02 cây điều trồng vào năm 2014).
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị, hủy bản án phúc thẩm để xét xử lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Nguồn gốc tạo lập phần đất tranh chấp là do ông Nguyễn Văn P-bà Nguyễn Thị H4 đổi đất với ông La Văn S2 vào năm 2002, mà có.
Khi đổi đất, trên đất đã có cây điều (7 năm tuổi) và 01 con đường đi (chiều ngang vào khoảng 3m) chạy giữa hai hàng cây điều để gia đình ông Nguyễn Văn P- bà Nguyễn Thị H4 (và những hộ dân có rẫy ở phía trong) dùng làm lối đi chung [2] Xét thấy, phía bị đơn ông Phạm Hữu TI-bà Nguyễn Thị T2 thừa nhận rằng khi nhận chuyển nhượng đất (từ ông Nguyễn Văn P), thì gia đình đương sự (cũng như những hộ dân khác) phải đi nhờ trên đất nhà ông Nguyễn Văn P-là con đường chạy giữa hai hàng cây điều, để đi vào những phần đất phía bên trong.
Khi ông Phạm Hữu T1-bà Nguyễn Thị T2 được Ủy ban nhân dân huyện P cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2006 đối với thửa đất 135, 139, thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện rằng có con đường đi mà hiện nay, các đương sự đang tranh chấp với nhau. Tại biên bản xác minh ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 12/10/2005 có chữ ký của ông Phạm Hữu T1 đối với thửa 135, cũng thể hiện có một con đường mòn.
[3] Xét, tại văn bản số 522/UBND-SX ngày 31/07/2018, Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước cho biết như sau (nội dung chính): các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Phạm Hữu T1-bà Nguyễn Thị T2 trước đây, được thực hiện theo số liệu đo đạc độc lập và các bản trích đo bản đồ địa chính có thể hiện con đường đi tranh chấp là đường đi công cộng. Nhưng vào năm 2008 khi cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo số liệu đo đạc chính quy, thì đơn vị tư vấn đo đạc có sai sót là không thể hiện đoạn đường đi theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũ.
[4] Xét thấy, với những chứng cứ và tình tiết của vụ án đã phân tích nói trên, Tòa án có căn cứ xác định rằng phần diện tích đất tranh chấp là con đường đi chung và đã có từ trước.
Khi xét xử, Tòa án cấp phúc thẩm và Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, là đúng pháp luật.
Tuy nhiên, xét thấy, theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 05/07/2018 (bút lục 179-180), thì trên diện tích đất tranh chấp, có những tài sản của ông Phạm Hữu T1-bà Nguyễn Thị T2 như sau: 83 cây cao su và 02 cây điều.
Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Phạm Hữu T1-bà Nguyễn Thị T2 trả lại con đường đi (diện tích là 1.178,3m2) nhưng chưa giải quyết về những cây trồng trên đất, là chưa bảo đảm quyền lợi của đương sự và làm cho việc thi hành bản án không thực hiện được.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 325; Điều 337; Điều 342; Điều 343; Điều 348 và Điều 349 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về Án phí, Lệ phí Tòa án;
1/Chấp nhận kháng nghị Giám đốc thẩm số 222/QĐ-VKS-DS ngày 18/09/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Hủy bản án Dân sự phúc thẩm số 51/2019/DS-PT ngày 17/05/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử vụ án “Tranh chấp lối đi chung” giữa nguyên đơn là ông Vũ Văn H1, bà Trần Thị V, ông Hoàng Bá T, bà Vũ Thị H; bị đơn là ông Phạm Hữu T1-bà Nguyễn Thị T2; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước.
2/Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
Quyết định GĐT về tranh chấp lối đi chung số 298/2023/DS-GĐT
Số hiệu: | 298/2023/DS-GĐT |
Cấp xét xử: | Giám đốc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 13/12/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về