TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 207/2024/HS-ST NGÀY 08/05/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 08/5/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 209/2024/TLST-HS ngày 19/3/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1835/2024/QĐXXST-HS, ngày 09/4/2024, đối với bị cáo:
Họ và tên: Lâm Tiến V; sinh năm 1991, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi thường trú: số A đường X, Phường H, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở lúc phạm tội: Căn hộ A Chung cư M, số M đường P, Phường M, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Nhân viên văn phòng; Con ông Lâm Văn N và bà Bùi Thị H; Vợ là Dương Thị Thảo Q và chưa có con; Tiền án, tiền sự: không; Bị tạm giam từ ngày 11/11/2023 đến nay; có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Trịnh Bá T là Luật sư của Văn phòng Luật sư Trịnh Bá T, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
Bị hại: Ông Hoàng Tuấn Đ, sinh năm 1990; nơi cư trú: A5.05 Chung cư Mỹ P, 192 Phạm Đức S, Phường 16, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
NỘI DUNG CỦA VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lâm Tiến V là nhân viên bộ phận theo dõi và xử lý đơn hàng của Công ty trách nhiệm hữu hạn T (gọi tắt là Công ty T). Tháng 02/2021, V nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của anh Hoàng Tuấn Đ, là anh rể của V. Để thực hiện ý định, V lên mạng tìm thông tin đặt làm giả con dấu của Công ty T với giá 2.500.000 đồng, để làm giả giấy tờ nhập hàng, bán hàng với Tiki và làm các hợp đồng mua bán. Sau đó, V nói anh Đ hùn vốn nhập hàng điện tử, loại điện gia dụng để bán cho Công ty T lấy lãi chia nhau thì anh Đ đồng ý. Sau khi anh Đ đồng ý góp vốn thì V sử dụng con dấu Công ty T làm giả để đóng lên các hợp đồng, phiếu xuất kho, đơn đặt hàng, do V tự tạo ra, làm cho anh Đ tin tưởng và từ tháng 6 năm 2021 đến tháng 5 năm 2022 thì anh Đ đã chuyển tiền vào tài khoản số 6057040601502xx của V mở tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam tổng cộng 16 lần, với tổng số tiền là 1.770.860.000 đồng. Số tiền này V rút ra tiêu sử dụng hết.
Sau một thời gian không thấy V chia lợi nhuận nên anh Đ hỏi thì V lấy lý do Công ty T chậm giải ngân, nên chưa được thanh toán tiền. Anh Đ đến Công ty T để xác thực thì được biết Công ty T không có ký kết hợp đồng mua bán với anh Đ, không có nhân viên và giám đốc có tên như trong các Hợp đồng mà V cung cấp, nên anh Đ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh tố cáo.
Tại Cơ quan điều tra, Lâm Tiến V thừa nhận đã có hành vi chiếm đoạt 1.770.860.000 đồng của anh Hoàng Tuấn Đ bằng cách rủ anh Đ góp vốn mua hàng điện tử bán cho Công ty T và số tiền chiếm đoạt được của anh Đ thì V sử dụng hết. Đối với con dấu Công ty T làm giả thì vào khoảng tháng 4 năm 2022, trên đường về quê ở tỉnh T và khi đến cầu G thì V đã vứt xuống sông.
Bản Kết luận giám định số 888/KL-KTHS ngày 09/02/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Hình dấu tròn có nội dung “CÔNG TY CỔ PHẦN T * M.S.D.N: 0309532909-C.T.C.P * THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH” trên 09 hợp đồng mua bán hàng hóa, 05 phiếu nhập kho, 23 đơn đặt hàng không phải do Công ty T đóng ra.
Vật chứng thu giữ: 09 hợp đồng mua bán hàng hóa, 05 phiếu nhập kho, 23 đơn đặt hàng lưu vào hồ sơ vụ án.
Tại Bản Cáo trạng số 164/CT-VKS-P2 ngày 11/3/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lâm Tiến V về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 và điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
Bị cáo khai nhận đã thực hiện những hành vi như đã nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện những hành vi như Viện kiểm sát đã hệ thống tại bản Cáo trạng. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo Lâm Tiến V về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 và điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng tội, đúng pháp luật.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lâm Tiến V thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; trong quá trình điều tra, bị cáo và gia đình đã bồi thường cho bị hại số tiền 425.000.000 đồng để khắc phục một phần hậu quả do bị cáo gây ra, là những tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo làm nhiều hợp đồng để chiếm đoạt tài sản của bị hại nên phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 3 Điều 341; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 55 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lâm Tiến V từ 12 năm đến 13 năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; từ 3 năm đến 4 năm tù, về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là từ 15 năm đến 17 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải trả lại cho bị hại số tiền 1.345.860.000 đồng.
Luật cứ của Luật sư Trịnh Bá T bào chữa cho bị cáo Lâm Tiến V như sau:
- Về tội danh: Luật sư thống nhất với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo Lâm Tiến V.
- Về hình phạt: Luật sư cho rằng nguyên nhân dẫn đến bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là do mẹ bị cáo bị bệnh cao huyết áp và xuất huyết, cha của bị cáo hai lần bị tai biến, nhưng không có tiền để chữa trị, trong khi bị cáo là người lao động duy nhất trong gia đình nên bị áp lực và để có tiền giải quyết khó khăn trước mắt nên bị cáo đã nghĩ ra việc thu nhập bất hợp pháp dẫn đến hành vi phạm tội. Sau khi phạm tội, bị cáo và gia đình biết được lỗi của bị cáo nên rất thiện chí trong việc bồi thường cho bị hại thể hiện đã bồi thường cho bị hại được 425.000.000 đồng và cam kết sẽ bán đất mà mẹ của bị cáo được thừa kế để trả tiếp cho bị hại.
Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp xem xét xử phạt bị cáo mức án thấp hơn mức mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị.
Đại diện Viện kiểm sát tranh luận, đối đáp với Luật sư bào chữa cho bị cáo như sau:
- Bị cáo không cung cấp được tài tiệu nào thể hiện tại thời bị cáo chiếm đoạt tiền của bị hại thì cha mẹ của bị cáo bị bệnh phải nằm viện. Mặt khác tại phiên tòa bị cáo khai mẹ của bị cáo bị bệnh phải mất số tiền 50.000.0000 đồng để điều trị, trong khi bị cáo chiếm đoạt của bị hại 1.770.860.000 đồng. Do đó Luật sư cho rằng cha mẹ của bị cáo bị bệnh là nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo là không có căn cứ.
- Mức án mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp với tính chất của vụ án mà bị cáo gây ra và những tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo đươc hưởng. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức án thấp hơn, thì do Hội đồng xét xử xem xét.
Bị hại thống nhất với lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát.
Đại diện Viện kiểm sát và Luật sư đều bảo lưu ý kiến đã tranh luận và không tranh luận về vấn đề nào khác.
Bị cáo không trình bày lời bào chữa bổ sung, không tranh luận với Đại diện của Viện kiểm sát và trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.
[2] Căn cứ lời khai của bị cáo Lâm Tiến V trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, căn cứ lời khai của bị hại và những chứng cứ mà Cơ quan điều tra thu thập được, có đủ căn cứ để xác định: Do có ý định chiếm đoạt tiền của anh Hoàng Tuấn Đ, nên bị cáo Lâm Tiến V đã chủ động mời gọi anh Đ góp vốn để mua hàng điện tử gia dụng bán lại cho Công ty T, để qua đó chiếm đoạt số tiền mà anh Đ đã góp. Quá trình thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã lên mạng đặt làm giả con dấu của Công ty T, sử dụng con dấu Công ty T làm giả đóng lên các Đơn đặt hàng, các Hợp đồng và Phiếu nhập kho do bị cáo tự tạo ra, rồi đưa anh Đ ký vào bên bán hàng. Thấy các giấy tờ trên có chữ ký người đại diện của Công ty T, có đóng dấu của Công ty T nên anh Đ tin tưởng là thật và từ tháng 6/2021 đến tháng 5/2022, anh Đ đã 16 lần chuyển tiền vào tài khoản của bị cáo theo tỷ lệ góp vốn, với tổng số tiền là 1.770.860.000 đồng và bị cáo đã chiếm đoạt toàn bộ số tiền trên. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thuộc trường hợp “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên”, tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[3] Căn cứ lời khai của bị cáo Lâm Tiến V trong quá trình điều tra và tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả giám định có đủ căn cứ để xác định: Các Đơn đặt hàng, các Hợp đồng và các Phiếu xuất kho, giữa bên bán là Hoàng Tuấn Đ với bên mua là Công ty T đều là giấy tờ làm giả. Bị cáo sử dụng các giấy tờ làm giả này để thực hiện hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của anh Hoàng Tuấn Đ và theo nhận định tại phần [2] thì hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bị cáo đã phạm vào tội đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, hành vi bị cáo sử dụng con dấu, tài liệu làm giả đã phạm vào tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, tội phạm và hình phạt được quy định điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo làm 9 Hợp đồng giả để chiếm đoạt tài sản của bị hại nhiều lần với tổng số tiền là 1.770.860.000 đồng, nên về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thì bị cáo đã phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: “Phạm tội 02 lần trở lên”, theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo rõ ràng, thành khẩn nhận tội và có thái độ ăn năn hối cải, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này cho cả hai tội. Sau khi bị khởi tố, bị cáo đã tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại, với số tiền là 425.000.000 đồng, nên về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì bị cáo còn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
[5] Về áp dụng hình phạt: Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, nó không những xâm phạm đến tài sản của người khác và xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của nhà nước, là những khách thể quang trọng được Bộ luật hình sự bảo vệ. Với tính chất và hậu quả của vụ án do bị cáo gây ra như vậy, lẽ ra phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc để giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung, nhưng xét thấy bị cáo có những tình tiết giảm nhẹ như đã nhận định tại phần [4] nên Hội đồng xét xử áp dụng mức án như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.
Nhận định trên cũng là lập luận của Hội đồng xét xử để chấp nhận toàn bộ lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát và một phần luận cứ bào chữa của Luật sư.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
Xử phạt Lâm Tiến V 12 (Mười hai) năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
Xử phạt Lâm Tiến V 03 (Ba) năm tù, về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Căn cứ Điều 55 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017: Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Lâm Tiến V phải chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 15 (Mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giam (Ngày 11/11/2023).
Về trách nhiệm dân sự:
Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 591 của Bộ luật dân sự năm 2015:
Buộc bị cáo Lâm Tiến V phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông Hoàng Tuấn Đ, với số tiền là 1.345.860.000 (Một tỷ ba trăm bốn mươi lăm triệu tám trăm sáu mươi nghìn) đồng.
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành hoặc không thi hành đầy đủ các khoản đã tuyên thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi, theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền chậm thi hành.
Về án phí:
Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 52.375.800 (Năm mươi hai triệu ba trăm bảy mươi lăm nghìn tám trăm) đồng, tiền án phí dân sự sơ thẩm, để nộp vào ngân sách Nhà nước.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo và bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 08/5/2024).
Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, Điều 7a và 9 Luật của Luật thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014. Thời hiệu thi hành án được áp dụng theo quy định tại Điều 30 của Luật này.
Bản về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản án số 75/2022/HS-ST
Số hiệu: | 75/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/02/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về