Bản án XX/2018/HS-PT ngày 27/06/2018 về tội chống người thi hành công vụ

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN XX/2018/HS-PT NGÀY 27/06/2018 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 27 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương mở phiên toà xét xử vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 61/2018/TLPT-HS ngày 08 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo Nguyễn Ngọc A và Đỗ Văn M. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 71/2018/HS-ST ngày 27 tháng 3 năm 2018 của Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Ngọc A, sinh năm 1974, tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Thôn B, xã C, huyện E, tỉnh Ninh Bình; chỗ ở hiện nay: Số 1524/13B khu phố F, phường G, thị xã D, tỉnh Bình Dương (không đăng ký tạm trú); nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Ngọc C (đã chết) và bà Phan Thị N (đã chết); bị cáo có vợ tên Phạm Thị H, sinh năm 1976; có 03 con, lớn nhất sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 19/10/2017 đến ngày 28/10/2017 được trả tự do. Có mặt.

2. Đỗ Văn M, sinh năm 1988, tại tỉnh Ninh Bình; thường trú: Thôn H, xã I, huyện E, tỉnh Ninh Bình; chỗ ở hiện nay: Số 1524/13B khu phố F, phường G, thị xã D, tỉnh Bình Dương (không đăng ký tạm trú); nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Đỗ Văn D (đã chết) và bà Vũ Thị B, sinh năm 1964; bị cáo có vợ tên Đinh Thị C, sinh năm 1990; có 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày03/8/2006, bị Công an huyện E, tỉnh Ninh Bình ra Quyết định xử phạt hành chính 200.000 đồng về hành vi vi phạm trật tự công cộng. Ngày 30/4/2007 bị Công an huyện E, tỉnh Ninh Bình ra Quyết định xử phạt hành chính 5.000.000 đồng về hành vi vi phạm quy định về bảo vệ công trình an ninh trật tự; bị bắt tạm giữ ngày 19/10/2017 đến ngày 28/10/2017 được trả tự do. Có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có 07 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 18/10/2017, tổ tuần tra Công an phường K gồm Bùi Tuấn K là cán bộ Công an phường làm tổ trưởng, Nguyễn Hữu L, Võ Văn H và Hồ Thanh H là lực lượng dân phòng, tiến hành tuần tra theo kế hoạch bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn phường K, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Khi tổ tuần tra đi đến đường N9, khu dân cư Biconsi, tổ 13, khu phố L, phường K, thị xã D, tỉnh Bình Dương thì thấy 01 xe ô tô tải Biển số 35C-066.37 của Đỗ Văn M và 02 xe ô tô khác (chưa rõ biển số) đang đậu lấn chiếm vỉa hè, đường đi nên đến nhắc nhở. Đỗ Văn M xin tổ tuần tra bỏ qua, hứa sẽ điều khiển xe ô tô đi chỗ khác. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, tổ tuần tra Công an phường K quay lại vẫn thấy 01 xe ô tô tải ben Biển số 35C-066.37 đang đậu mà chưa di dời nên ông Bùi Tuấn K nhắc nhở yêu cầu Đỗ Văn M không được đậu xe ở đây, nếu không dời xe ô tô sẽ lập biên bản. Nguyễn Ngọc A, Vũ Văn T và T1 (chưa rõ nhân thân, lai lịch) đang uống rượu trong phòng trọ đi ra, Nguyễn Ngọc A hỏi ông Bùi Tuấn K “chỗ này có biển báo cấm đậu đâu mà kêu dời”, ông Bùi Tuấn K giải thích nhưng Nguyễn Ngọc A không nghe mà còn chửi tục, chửi thề; Đỗ Văn M cũng chửi ông Bùi Tuấn K với những lời lẽ thô tục. Thấy vậy, ông Võ Văn H giải thích nhưng Nguyễn Ngọc A, Đỗ Văn M không nghe mà còn cự cãi, Nguyễn Ngọc A lại xô đẩy và dùng tay phải đánh trúng thái dương bên trái của ông Võ Văn H, do bị đánh ông Võ Văn H bỏ chạy, sau đó ông Võ Văn H quay lại thì Đỗ Văn M đi đến đánh 01 cái trúng vào sau ót đầu của ông Võ Văn H, do bị đánh ông Võ Văn H tiếp tục bỏ chạy. Lúc này, Nguyễn Ngọc A và Đỗ Văn M nhìn thấy ông Hồ Thanh H đang cầm trên tay 02 cây cờ lê dùng để tháo biển số xe nên la lớn “thằng kia cầm tuýp tháo biển số xe à” rồi Đỗ Văn M lao vào xô đẩy và dùng tay phải đánh 01 cái trúng vào gò má bên trái ông Hồ Thanh H, do bị đánh thì ông Hồ Thanh H bỏ chạy. Cùng lúc, Phạm Ngọc H đi chơi về nhìn thấy Đỗ Văn M đang cự cãi tổ tuần tra, Phạm Ngọc H đi đến giơ tay định đánh ông Nguyễn Hữu L nhưng được ông Bùi Tuấn K gạt tay can ngăn kịp thời nên không đánh được, còn Nguyễn Ngọc A tiếp tục xông đến nắm lấy cầu vai trên áo của ông Bùi Tuấn K và nói “tao chạy một chuyến xe, cầu vai mày lấy bao nhiêu tao mua”, Nguyễn Ngọc A giằng co kéo làm bảng tên của ông Bùi Tuấn K rớt xuống đường. Sau đó, lực lượng Công an phường K đến hỗ trợ, khống chế bắt giữ Nguyễn Ngọc A đưa lên xe ô tô chở về phường làm việc. Riêng Đỗ Văn M đã bỏ về phòng trọ ngủ, Cơ quan cảnhsát Công an thị xã D ra lệnh bắt khẩn cấp đối với Đỗ Văn M về hành vi Chống người thi hành công vụ.

Vật chứng trong vụ án: 01 USB màu đen có chứa đoạn video nội dung về hành vi chống người thi hành công vụ.

Đối với Phạm Ngọc H có hành vi giơ tay định đánh và do bị khống chế nên dùng chân đạp lực lượng nhưng hành vi này chưa đủ yếu tố cấu thành tội chống người thi hành công vụ, do đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D đã ra Quyết định xử phạt hành chính số tiền 2.500.000 đồng về hành vi gây rối, cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức quy định tại điểm h, khoản 3 Điều 5 Nghị định số 167/2013 ngày 12/11/2017 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 71/2018/HSST ngày 27/3/2018 của Toà án nhân dân thị xã D đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Ngọc A và Đỗ Văn M phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

Áp dụng khoản 1 Điều 257; Điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc A 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án, được khấu trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 19/10/2017 đến ngày 28/10/2017.

- Xử phạt bị cáo Đỗ Văn M 07 (bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án, được khấu trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 19/10/2017 đến ngày 28/10/2017.

Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 02/4/2018, bị cáo Nguyễn Ngọc A và Đỗ Văn M làm đơn kháng cáo xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và cung cấp các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới như: Bị cáo Nguyễn Ngọc A có mẹ là bà Phan Thị N được tặng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì do Ban thi đua khen thưởng Trung ương chứng nhận; bị cáo Đỗ Văn M có ông ngoại là ông Vũ Văn Đ được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất vì đã có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngoài ra, các bị cáo còn có con nhỏ, có hoàn cảnh khó khăn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Về tố tụng, các bị cáo kháng cáo trong thời gian quy định nên Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm để xem xét giải quyết kháng cáo của bị cáo là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật. Về yêu cầu kháng cáo của bị cáo: Tội danh, điều luật của Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử bị cáo Nguyễn Ngọc A và Đỗ Văn M về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 257 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Các bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo và cung cấp tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới là: Bị cáo Nguyễn Ngọc A có mẹ được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì, bị cáo Đỗ Văn M có bà ngoại được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định mức hình phạt đối với các bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi của các bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Trong lời nói sau cùng, các bị cáo đã ăn năn hối cải, các bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới mà các bị cáo cung cấp để cho các bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 18/10/2017, tại đường N9, khu dân cư Biconsi, tổ 13, khu phố L, phường K, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Khi tổ tuần tra Công an phường K do ông Bùi Tuấn K là cán bộ Công an phường làm tổ trưởng, Nguyễn Hữu L, Võ Văn H và Hồ Thanh H là lực lượng dân phòng, tiến hành tuần tra theo kế hoạch bảo đảm an toàn giao thông, an ninh trật tự trên địa bàn phường K. Nguyễn Ngọc A, Đỗ Văn M dừng đỗ xe trên vỉa hè nên tổ tuần tra nhắc nhở nhưng Nguyễn Ngọc A và Đỗ Văn M đã thực hiện hành vi cự cãi, chửi bới tổ tuần tra. Nguyễn Ngọc A dùng tay phải đánh vào thái dương bên trái của ông Võ Văn H. Ngoài ra, Nguyễn Ngọc A còn dùng tay kéo cầu vai làm rớt bảng tên của ông Bùi Tuấn K trong khi đang thi hành nhiệm vụ. Đỗ Văn M có hành vi đánh vào sau ót của ông Võ Văn H và lao vào xô đẩy, dùng tay đánh trúng gò má bên trái của ông Hồ Thanh H.

Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Ngọc A và Đỗ Văn M về tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 257 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo đã có hành vi dùng vũ lực đối với người đang thi hành công vụ, xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của những người đang thi hành công vụ và thông qua đó xâm phạm đến hoạt động của Nhà nước về quản lý hành chính.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Ngọc A: Bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo và cung cấp các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới là bị cáo có mẹ là bà Phan Thị N được tặng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì do Ban thi đua khen thưởng Trung ương chứng nhận. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, vì vậy Hội đồng xét xử sẽ áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này cho bị cáo. Ngoài ra, sau khi phạm tội, bị cáo đã ăn năn, hối cải; bị cáo có công việc làm ổn định, có nơi cư trú rõ ràng. Bị cáo Nguyễn Ngọc A phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Nguyễn Ngọc A có khả năng tự cải tạo và đủ điều kiện hưởng án treo theo Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử xétchấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Ngọc A sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 71/2018/HSST ngày 27/3/2018 của Toà án nhân dân thị xã D về phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Ngọc A.

Đối với kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Đỗ Văn M: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đỗ Văn M cung cấp tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, có ông ngoại là ông Vũ Văn Đ được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất vì đã có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) nên Hội đồng xét xử sẽ áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này cho bị cáo. Bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo nhưng bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể: Ngày 03/8/2006 bị Công an huyện E, tỉnh Ninh Bình ra Quyết định xử phạt hành chính 200.000 đồng về hành vi vi phạm trật tự công cộng. Ngày 30/4/2007 bị Công an huyện E, tỉnh Ninh Bình ra Quyết định xử phạt hành chính 5.000.000 đồng về hành vi vi phạm quy định về bảo vệ công trình an ninh trật tự. Xét thấy, bị cáo đã nhiều lần vi phạm pháp luật, đã bị xử lý hành chính về trật tự công cộng, an ninh trật tự nhưng vẫn phạm tội cho thấy bị cáo không có khả năng tự cải tạo nên bị cáo không đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật Hình sự về án treo. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Đỗ Văn M giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 71/2018/HSST ngày 27/3/2018 của Toà án nhân dân thị xã D về phần hình phạt đối với bị cáo Đỗ Văn M.

[4] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương về việc giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Ngọc A là chưa phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận; đề nghị giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm đối với bị cáo Đỗ Văn M là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Án phí hình sự phúc thẩm: Do Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Ngọc A nên bị cáo Nguyễn Ngọc A không phải nộp. Kháng cáo của bị cáo Đỗ Văn M không được chấp nhận nên bị cáo Đỗ Văn M phải nộp án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 355 và Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự;

1/ Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Văn M giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 71/2018/HSST ngày 27/3/2018 của Toà án nhân dân thị xã D về phần hình phạt đối với bị cáo Đỗ Văn M; Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Ngọc A sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 71/2018/HSST ngày 27/3/2018 của Toà án nhân dân thị xã D về phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Ngọc A.

Áp dụng khoản 1 Điều 257; Điểm h, p khoản 1 Điều 46; Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009); điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc A 08 (tám) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ” nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách là 01 (một) năm 04 (bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (ngày 27/6/2018).

Giao bị cáo Nguyễn Ngọc A về Ủy ban nhân dân xã C, huyện E, tỉnh Ninh Bình giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo Nguyễn Ngọc A thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

- Áp dụng khoản 1 Điều 257; Điểm h, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009).

- Xử phạt bị cáo Đỗ Văn M 07 (bảy) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án, được khấu trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 19/10/2017 đến ngày 28/10/2017.

2/ Về án phí hình sự phúc thẩm: Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Ngọc A không phải nộp; Bị cáo Đỗ Văn M phải nộp 200.000 đồng.

3/ Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án XX/2018/HS-PT ngày 27/06/2018 về tội chống người thi hành công vụ

Số hiệu:XX/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;