Bản án về yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng lao động số 13/2024/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 13/2024/LĐ-ST NGÀY 27/09/2024 VỀ YÊU CẦU TUYÊN VÔ HIỆU HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG

Ngày 27 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 14/2024/TLST-LĐ ngày 27 tháng 5 năm 2024 về việc “tranh chấp yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng lao động và điều chỉnh sổ bảo hiểm xã hội” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

15/2024/QĐXXST-LĐ ngày 30 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị  M , sinh năm 1997; địa chỉ: Ấp H, xã P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu .

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh ngày 01/01/2001; địa chỉ: ấp G, xã T, huyện B, tỉnh Cà Mau.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Công ty TNHH MTV J; địa chỉ trụ sở: Lô N, Đườn g D, KCN L, xã L, huyện C, tỉnh Long An.

Người đại diện hợp pháp theo pháp luật: Ông Chou Ming H – Chức danh: Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Chou M1 Huang: Bà Trần Thị Kiều O, sinh năm 1995; địa chỉ: Lô N, Đường D, KCN L, xã L, huyện C, tỉnh Long An (là trợ lý của tổng giám đốc).

- Bảo hiểm xã hộitỉnh L; địa chỉ trụ sở: Số H tuyến tránh, Ph ường D, Thành phố T, tỉnh Long An.

Người đại diện hợp pháp theo pháp luật của Bảo hiểm xã hội tỉnh L : Ông Trần S - Chức vụ: Giám đốc.

(Các đương sự đều đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Ngu yễn Thị M trình bày:

Bà và bà Ngu yễn Thị D là chị em ruột. Vào năm 2016 bà cho bà Nguyễn Thị Diệu M2 giấy tờ tùy thân để nộp hồ sơ xin làm việc tại Công ty TNHH MTV J. Do bà D sinh năm 2001 chưa đủ tuổi để ký hợp đồng lao động và tham gia bảo hiểm xã hội. Sau khi ký hợp đồng lao động với Công ty TNHH MTV J, bà D mang danh tên bà tham gia bảo hiểm xã hội. Đến ngày 29/9/2016, bà D được Bảo hiểm xã hộitỉnh L cấp sổ bảo hiểm xã hộisố 801602xxxx mang tên Nguyễn Thị M và tham gia đóng bảo hiểm xã hộitại Công ty TNHH MTV J đến tháng 02 năm 2019 bà D chấm dứt đóng bảo hiểm xã hội. Ngày 12/3/2019 bà D và Công ty TNHH MTV J chấm dứt hợp đồng lao động do bà D xin nghỉ, nhưng bà D đã nghỉ việc khoảng 01 tháng trước khi có quyết định chấm dứt hợp đồng lao động. Trong thời gian làm việc tại Công ty TNHH MTV J nêu trên, toàn bộ hồ sơ của bà D đều mang tên M. Tuy nhiên, trùng trong một khoảng thời gian đó, vào tháng 4 năm 2018 bà làm việc tại Côn g t y Cổ p h ần S1 và tham gia bảo hiểm xã hộitại Côn g t y Cổ p hần S1 từ tháng 4 năm 2018 theo sổ bảo hiểm xã hộisố 962157xxxx, từ tháng 5/2021 đến tháng 10 năm 2021 bà nghỉ thai sản, rồi nghỉ không lương và sau đó bà nghỉ làm luôn. Năm 2023 bà định rút bảo hiểm nhưng không được do có 02 sổ bảo hiểm mang tên bà. Nhưng bà chưa có điều kiện để đi yêu cầu giải quyết, đến tháng 3/2024 bà tiếp tục làm việc tại Công ty Cổ ph ần S1 và tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội.

Do quá trình tham gia bảo hiểm xã hộicủa bà bị trùng với quá trình tham gia bảo hiểm xã hộicủa bà Ngu yễn Thị  D mà trước đó bà D mượn giấy tờ tùy thân của bà đi làm và tham gia bảo hiểm xã hộimang tên bà nên sau này cơ quan bảo hiểm sẽ không giải quyết chế độ bảo hiểm theo quy định. Bà cũng đã liên hệ với Bảo hiểm xã hội t ỉnh L , Bảo hiểm xã hộihu yện C để xin hướng dẫn hủy/điều chỉnh sổ BHXH số 801602xxxx mà trước đó bà cho bà D mượn giấy tờ tùy thân thì được hướng dẫn đến Tòa án để khởi kiện. Do đó, bà gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc để yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng lao động giữa Công ty TNHH MTV J và J Fashion với người lao động mang tên Nguyễn Thị  M , sinh năm 1997, chứng minh nhân dân số 38186xxxx, sổ bảo hiểm xã hộisố 801602xxxx, từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 3 năm 2019 vì thực tế bà (Mọng) không có làm việc tại Công ty TNHH MTV J và J F mà người lao động là bà Ngu yễn Thị  D để giải quyết chế độ bảo hiểm xã hộiđối với khoảng thời gian đóng trùng bảo hiểm xã hộigiữa sổ bảo hiểm xã hộisố 801602xxxx và sổ bảo hiểm xã hộisố 962157xxxx. Đồng thời, điều chỉnh sổ Bảo hiểm xã hộisố 801602xxxx mang tên Nguyễn Thị M thành tên Ngu yễn Thị  Di ệu . Bà đồng ý để cho bà D hưởng chế độ bảo hiểm tại sổ bảo hiểm xã hộisố 801602xxxx, bà hưởng chế độ bảo hiểm tại sổ bảo hiểm xã hộisố 962157xxxx.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Nguyễn Thị D trình bày: Vào tháng 9 năm 2016, bà chưa đủ 18 tuổi để ký hợp đồng lao động để đi xin việc làm nên bà hỏi mượn chứng minh nhân dân của bà Nguyễn Thị M là chị gái của bà để ký hợp đồng làm việc tại Công ty TNHH MTV J và được bảo hiểm xã hội tỉnh L cấp sổ bảo hiểm xã hộisố 801602xxxx mang tên Nguyễn Thị M, thời gian tham gia bảo hiểm xã hội từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 02 năm 2019 thì bà nghỉ việc, đến ngày 12/3/2019 có quyết định chấm dứt hợp đồng lao động giữa bà với Công ty TNHH MTV J. Tháng 4/2019 bà làm việc tại Công ty TNHH A, lúc này bà đã đủ tuổi lao động nên hợp đồng lao động mang tên bà, bà đã hưởng BHXH trong thời gian làm việc tại Công ty TNHH A từ tháng 4/2019 đến tháng 10/2022. Nhưng bà chưa hưởng chế độ bảo hiểm xã hộitrong thời gian làm việc tại Công ty TNHH MTV J và J F vì trùng với sổ bảo hiểm xã hộisố 962157xxxx của bà M. Bà đồng ý vô hiệu hợp đồng lao động giữa Công ty TNHH MTV J và J Fashion với người lao động mang tên Nguyễn Thị M , sinh năm 1997, chứng minh nhân dân số 38186xxxx, sổ bảo hiểm xã hộisố 801602xxxx, từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 3 năm 2019 vì thực tế bà Ngu yễn Thị  M không có làm việc tại Công ty TNHH MTV J và J F mà người lao động là bà. Đồng thời, điều chỉnh sổ Bảo hiểm xã hộisố 801602xxxx mang tên Ngu yễn Thị  M làm việc tại Công ty TNHH MTV J1 thời gian tham gia bảo hiểm từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 02 năm 2019 thành tên Ngu yễn Thị Di ệu . Để bà được hưởng chế độ bảo hiểm xã hộitheo sổ bảo hiểm xã hộisố 801602xxxx và bà M hưởng chế độ bảo hiểm xã hộitheo sổ bảo hiểm xã hộisố 962157xxxx. Khi tuyên vô hiệu hợp đồng lao động thì bà không yêu cầu giải quyết quyền lợi gì liên quan đến hợp đồng lao động giữa bà với Công ty TNHH MTV J.

Quá trình giải quyết vụ án, Bảo hiểm xã hộitỉnh L có văn bản số 1971/BHXH-PQLT-ST ngày 30/7/2024 cung cấp thông tin với nội dung: Căn cứ hồ sơ, dữ liệu quản lý thu BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (BHTNLĐ, BNN); số BHXH, thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) tại Văn phòng BHXH tỉnh L, tháng 9/2016, Công ty TNHH MTV J1, địa chỉ: Lô N, Đường D, KCN L, xã L, huyện C, tỉnh Long An có kê khai đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLD, BNN cho người lao động có thông tin nhân thân: Nguyễn Thị  M , ngày năm 1997, chứng minh nhân dân số 38186xxxx. Số sổ BHXH được cấp là: 801602xxxx, có quá trình đóng BHXH, BHTN được thể hiện trên phụ lục Bản ghi quá trình đóng BHXH, BHYT từ tháng 9/2016 đến tháng 02/2019. Qua tra cứu dữ liệu chi trả chính sách BHXH, BHTN đến ngày 28/7/2024, thời gian đóng BHXH, BHTN trên số BHXH số 801602xxxx chưa được duyệt hưởng trợ cấp BHXH một lần và trợ cấp BHTN.

Quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH MTV J1 trình bày: Năm 2016 bà Nguyễn Thị  M gia nhập Công ty TNHH MTV J1, Công ty không biết về việc người lao động sử dụng hồ sơ giả. Hợp đồng ký kết ngày 01/9/2016 đến ngày 12/3/2019. Quá trình làm việc tại Công ty TNHH MTV J1, bà M tham gia bảo hiểm xã hộitheo quy định của Công ty và quy định của pháp luật. Công ty không biết việc bà M không phải là chính chủ của hồ sơ xin việc và cũng không biết người làm việc tại Công ty là bà Nguyễn Thị Diệu . Vì hồ sơ xin việc có đầy đủ giấy tờ tùy thân, giấy khám sức khỏe mang tên Nguyễn Thị M. Công ty đã cung cấp cho Tòa án các giấy tờ liên quan và không còn trách nhiệm liên quan nào.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hộiđồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hộiđồng xét xử nghị án được thực hiện đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có cơ sở xác định lời trình bày của bà Nguyễn Thị  M và bà Nguyễn Thị D về việc bà M cho bà D mượn giấy tờ tùy thân để ký hợp đồng lao động với Công ty TNHH MTV J1 là phù hợp nên hợp đồng lao động ký giữa bà Nguyễn Thị D (tên trên hợp đồng là Nguyễn Thị  M ) với Công ty TNHH MTV J1 từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 3 năm 2019 vô hiệu toàn bộ nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M, tuyên bố hợp đồng lao động nêu trên vô hiệu và điều chỉnh tên Nguyễn Thị M theo sổ bảo hiểm xã hộisố 801602xxxx thành tên Nguyễn Thị D để bà D được hưởng chế độ bảo hiểm theo sổ bảo hiểm xã hộisố 801602xxxx và bà M hưởng chế độ bảo hiểm theo sổ bảo hiểm xã hộisố 962157xxxx.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Ngu yễn Thị M và nội dung vụ án, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng lao động và điều chỉnh sổ bảo hiểm xã hội” theo quy định tại khoản 1, khoản 5 Điều 32 Bộ luật Tố tụng dân sự. Người lao động ký hợp đồng lao động với Công ty TNHH MTV J1 có địa chỉ trụ sở tại khu côn g nghi ệp L, xã L, huyện C, tỉnh Long An, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc giải quyết nên Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 35, điểm g khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Các đương sự đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nên căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị M về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng lao động đã ký giữa bà Nguyễn Thị D nhưng tên trên hợp đồng lao động là Ngu yễn Thị  M với Công ty TNHH MTV J1 từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 3 năm 2019 là vô hiệu, xét thấy:

Theo lời trình bày của Công ty TNHH MTV J1 và hồ sơ lao động do Công ty TNHH MTV J1 cung cấp thì người lao động tên là Nguyễn Thị  M , sinh năm 1997, chứng minh nhân dân số 38186xxxx, sổ bảo hiểm xã hộisố 801602xxxx có làm việc tại Công ty TNHH MTV J1 thời gian từ tháng 09 năm 2016 đến ngày 12 tháng 3 năm 2019 có quyết định chấm dứt hợp đồng lao động. Và theo hợp đồng lao đồng cũng như sổ bảo hiểm xã hộisố 962157xxxx thì người lao động tên là Ngu yễn Thị  M , sinh năm 1997, chứng minh nhân dân số 38186xxxx có làm việc tại Cổ phần Sản xuất và Thương mại S1 thời gian từ tháng 4 năm 2018, hiện vẫn còn làm tại Cổ phần Sản xuất và Thương mại S1.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng người lao động tên Nguyễn Thị M , chứng minh nhân dân số 38186xxxx, có quá trình tham gia bảo hiểm xã hộitừ tháng 9 năm 2016 đến tháng 02 năm 2019 tại Công ty TNHH MTV J1 trên mã số BHXH 801602xxxx và có quá trình tham gia bảo hiểm xã hộitừ tháng 4 năm 2018 tại Công t y Cổ p h ần S1 trên mã số BHXH 962157xxxx.

Như vậy, cùng một người lao động tên là Nguyễn Thị M , chứng minh nhân dân số 38186xxxx nhưng có 02 sổ bảo hiểm xã hộivới quá trình tham gia bảo hiểm xã hộicó khoảng thời gian bị trùng nhau.

Từ sự phân tích nêu trên có đủ cơ sở xác định lời trình bày của bà Nguyễn Thị M và bà Ngu yễn Thị  D về việc bà Nguyễn Thị M cho bà Nguyễn Thị Diệu M2 giấy tờ tùy thân để ký hợp đồng lao động với Công ty TNHH MTV J1 là phù hợp. Đối tượng lao động thực sự lao động trong giai đoạn này tại Công ty TNHH MTV J1 là bà D chứ không phải là bà M. Như vậy, bà D đã vi phạm nguyên tắc, nghĩa vụ của người lao động quy định tại các Điều 5, 7, 8, 17, 18, 19 Bộ luật Lao động năm 2012, còn Công ty TNHH MTV J1 chưa thực hiện đúng quy định về việc tuyển dụng người lao động theo các Điều 6, 7, 8 Bộ luật Lao động năm 2012 khi sử dụng người lao động không đúng đối tượng lao động, nên đây là trường hợp hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ. Do đó, bà M yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng lao động ký giữa bà Nguyễn Thị D nhưng tên trên hợp đồng lao động là Nguyễ n Thị  M với Công ty TNHH MTV J1 từ tháng 9 năm 2016 đến ngày 12 tháng 3 năm 2019 là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật nên được chấp nhận.

[2.2] Xử lý hậu quả của hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ: Do Công ty TNHH MTV J1 và bà Nguyễn Thị  D không có yêu cầu gì liên quan đến quyền lợi trong hợp đồng lao động nên không xem xét.

[2.3] Bà Nguyễn Thị M thống nhất để bà Nguyễn Thị D được hưởng quá trình đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp của bà D tại sổ bảo hiểm xã hộisố 801602xxxx từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 02 năm 2019 mang tên Nguyễn Thị M nên Bảo hiểm xã hộitỉnh Long An có trách nhiệm điều chỉnh tên Nguyễn Thị M theo sổ bảo hiểm xã hộisố 801602xxxx thành tên Ngu yễn Thị D để bà D được hưởng chế độ bảo hiểm theo sổ bảo hiểm xã hộisố 801602xxxx và bà Nguyễn Thị M được hưởng chế độ bảo hiểm theo sổ bảo hiểm xã hộisố 962157xxxx.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hộikhóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án. Nhưng nguyên đơn bà Ngu yễn Thị M tự nguyện chịu án phí nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm g khoản 1 Điều 40, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Căn cứ các Điều 5, 6, 7, 8, 17, 18, 19 Bộ luật Lao động năm 2012; Căn cứ các Điều 15, 16 Bộ luật Lao động năm 2019;

Căn cứ Điều 10 của Nghị định số 145/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động;

Căn cứ các Điều 19, 21, 23, 96 của Luật Bảo hiểm xã hộinăm 2014. Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị M đối với bị đơn bà Ngu yễn Thị  D , người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH MTV J1.

Tuyên bố vô hiệu hợp đồng lao động được xác lập giữa bà Nguyễn Thị D (nhưng trên hợp đồng lao động ghi tên là Nguyễn Thị  M ) với Công ty TNHH MTV J1 thời gian từ tháng 9 năm 2016 đến ngày 12 tháng 3 năm 2019.

 Bảo hiểm xã hội tỉnh L có trách nhiệm điều chỉnh sổ bảo hiểm xã hộisố 801602xxxx ngày 29 tháng 9 năm 2016 cấp cho bà Nguyễn Thị  M do Công ty TNHH MTV J1 nộp từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 02 năm 2019 tại Bảo hiểm xã hộitỉnh L thành tên bà Nguyễn Thị Di ệu . Bà Nguyễn Thị  M được hưởng các chế độ bảo hiểm theo sổ bảo hiểm xã hội số 962157xxxx và bà Ngu yễn Thị  D được hưởng các chế độ bảo hiểm theo sổ bảo hiểm xã hội số 801602xxxx đã được điều chỉnh.

Bà Ngu yễn Thị  M và bà Nguyễn Thị D được quyền liên hệ cơ quan bảo hiểm để thực hiện thủ tục điều chỉnh thông tin đóng bảo hiểm xã hộinêu trên theo quy định.

2. Về án phí: Nguyên đơn bà Ngu yễn Thị M tự nguyện chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà bà M đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0000510 ngày 21/5/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, bà M đã nộp đủ tiền án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng lao động số 13/2024/LĐ-ST

Số hiệu:13/2024/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Giuộc - Long An
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 27/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;