TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 07/2024/DS-PT NGÀY 08/01/2024 VỀ YÊU CẦU TUYÊN HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG NHÀ ĐẤT VÔ HIỆU VÀ VAY TÀI SẢN
Ngày 03 + 08 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 606/2022/TLPT-DS ngày 20/12/2022 về việc " Yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng nhà đất vô hiệu và vay tài sản ".
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 113/2022/DS-ST ngày 27/9/2022 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 556/2023/QĐ-PT ngày20/11/2023 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 574/2023/QĐPT-HPT ngày 11/12/2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1964
2. Ông Nguyễn Tiến L, sinh năm 1961
Cùng địa chỉ: Đội 6, thôn Nhân Hòa, xã T, T, Hà Nội. ( Vắng mặt).
3. Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1964
4. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1966
Cùng địa chỉ: Ngõ 55, thôn Thượng Phúc, xã T, huyện T, Hà Nội.
(Có mặt).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông S, bà H Luật sư Nguyễn Văn Tn – Công ty Luật Thanh T- Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội. ( Có mặt).
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1964 Địa chỉ: Đội 10, xã T, huyện T, Hà Nội. ( Vắng mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Phí Đình Đ, sinh năm 1953
2. Bà Phùng Thị V, sinh năm 1955 Cùng địa chỉ: Xóm Chàng Trũng, xã Dương Liễu, huyện H, Hà Nội. ( Vắng mặt).
3. Ông Bùi Mạnh C, sinh năm 1972
4. Bà Nguyễn Thị Minh L, sinh năm 1973 Cùng địa chỉ: Số 95, phố Thùy Ái 1, phường B, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. (Vắng mặt).
5. Công ty TNHH MTC Q Việt Nam (VAMC); Trụ sở: Số 22 Hàng Vôi, phường L, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Ủy quyền cho: Ngân hàng TMCP S (S). Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng: Bà Đinh Thị Ái L – S Chi nhánh H; địa chỉ: 474-476 đường Quang Trung, phường La Khê, quận H, Hà Nội. (Có mặt).
6. Văn phòng công chứng Thái H; địa chỉ: Số 148 Thái H, phường Phương Liệt, quận Đ, Hà Nội. (Vắng mặt)
7. Ủy ban nhân dân huyện T, Hà Nội. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trịnh Công S – Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T. (Vắng mặt).
8. Anh Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1986
9. Chị Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1987
10. Anh Nguyễn Tiến Đ1, sinh năm 1990
11. Anh Nguyễn Văn Đ2, sinh năm 1992
12. Anh Phạm Công T
13. Chị Bùi Thị Thanh H
14. Chị Nguyễn Thị H2 Cùng địa chỉ: Ngõ 55, thôn Thượng Phúc, xã T, huyện T, Hà Nội.
( Có mặt anh Đ1; Vắng mặt anh Tr, chị Đ, anh Đ2, chị H, anh T, chị H2).
15. Anh Nguyễn Tiến Th, sinh năm 1986
16. Chị Hoàng Ngọc D, sinh năm 1990
Cùng địa chỉ: Đội 6, thôn Nhân Hòa, xã T, T, Hà Nội. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngày 15/4/2011, Ngân hàng TMCP Phương N - Chi nhánh Giảng Võ ký hợp đồng tín dụng số 0127/04/11/HĐTD-CN cho ông Bùi Mạnh C, bà Nguyễn Thị Minh L vay 5.000.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng kể từ ngày 15/4/2011, lãi suất 21%/năm, lãi quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, mục đích vay: bổ sung tiền mua nhà, đất.
Tài sản đảm bảo:
+ Ông C, bà L ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng 266 m2 đất và tài sản trên đất tại thửa 101 tờ bản đồ số 12, thôn Nhân Hòa, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội mà ông C, bà L đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản trên đất để đảm bảo cho khoản tiền vay 2,3 tỷ đồng (Hợp đồng có số công chứng 3170-11 quyển số 2, ngày 15/4/2011 tại phòng Công chứng số 1 thành phố Hà Nội)
+ Ông Phí Đình Đ và bà Phùng Thị V ký hợp đồng thế chấp diện tích đất 190m2 tại thửa số 170 tờ bản đồ số 03, xã T, huyện Thanh Trí, thành phố Hà Nội mà ông Đ, bà V đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để bảo lãnh số tiền vay 2.700.000.000 đồng của ông C, bà L (Hợp đồng có số công chứng 3171-11 quyển số 2 ngày 15/04/2011 tại phòng Công chứng số 1 thành phố Hà Nội) Tính đến ngày 21/3/2012 ông, bà C, L đã trả được tổng số tiền là 875.775.385 đồng bao gồm lãi trong hạn và lãi quá hạn, chưa trả được đồng gốc nào. Đến ngày 27/3/2013, bà T đã trả thay cho ông C, bà L số tiền gốc là 100.000.000 đồng .
Do phía ông C, bà L vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng TMCP Phương N khởi kiện đề nghị Tòa án buộc ông C, bà L trả số nợ tính đến ngày 28/9/2016 là: 12.102.287.500 đồng. Bao gồm:
Gốc: 4.900.000.000 đồng Lãi trong hạn: 4.866.941.667 đồng Lãi quá hạn: 2.335.345.833 đồng Và phải chịu lãi phạt trên số lãi chậm trả: 284.179.578 đồng Trường hợp ông C, bà L không trả được nợ thì Ngân hàng TMCP Phương N đề nghị Tòa án quyết định cho Ngân hàng được xử lý tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất tại thửa số 170 tờ bản đồ số 03, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội và tại thửa 101 tờ bản đồ số 12, thôn Nhân Hòa, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội để thu hồi nợ.
Bản án sơ thẩm số 06/2012/DS – ST ngày 17/7/2013 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Phương N.
- Buộc ông C, bà L do bà M đại diện phải trả cho Ngân hàng TMCP Phương N tính đến ngày 17/7/2013 số tiền là 7.093.280.729 đồng gồm: 4.900.000.000 đồng nợ gốc; lãi trong hạn: 1.525.550.000 đồng; lãi quá hạn: 667.730.729 đồng.
- Trường hợp ông C, bà L do bà M đại diện không trả được nợ thì Ngân hàng TMCP Phương N có quyền đề nghị cơ quan thi hành án phát mại tài sản đảm bảo là nhà, đất tại thửa 101, TBĐ số 12 thôn Nhân Hòa, xã T, huyện T, Hà Nội, và thửa 170, TBĐ số 3 xã T, huyện T, Hà Nội để thu hồi nợ.
Bà T, ông L có đơn kháng cáo.
Bản án phúc thẩm số 301/2013/DS-PT ngày 21/11/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử:
Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm.
Ngày 20/2/2014, ông L bà T có đơn yêu cầu độc lập đề nghị hủy hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất giữa ông bà với bà M, giữa bà M với ông C, bà L và hủy hợp đồng thế chấp giữa ông C, bà L với Ngân hàng về nhà đất tại thửa 101, TBĐ số 12 thôn Nhân Hòa, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội.
Ngày 10/3/2014 ông S, bà H có đơn yêu cầu độc lập đề nghị hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 170 tờ bản đồ số 3 xã T, huyện T, Tp. Hà Nội lập tại Văn phòng công chứng Thái H giữa ông, bà và bà V ông Đ.
Ngày 14/9/2015 Ngân hàng TMCP Phương N sáp nhập vào Ngân hàng TMCP S (viết tắt là S).
Bản án sơ thẩm số 19/2016/DS - ST ngày 28/9/2016 của Tòa án quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng S đòi nợ ông C, bà L về nợ gốc, lãi quá hạn tổng số tiền là: 12.102.287.500 đồng.
- Trường hợp ông C, bà L không trả được nợ thì Ngân hàng S có quyền đề nghị cơ quan Thi hành án kê biên tài sản đảm bảo là nhà, đất taị thửa 170 TBĐ số 3 xã T, huyện T, Hà Nội mà bà V ông Đ bảo lãnh thế chấp để thu hồi nợ.
- Không chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông S bà H với ông Đ, bà V.
- Chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất giữa bà T ông L với bà M; xác định việc chuyển nhượng giữa bà M và ông C bà L là không hợp pháp.
- Không chấp nhận hợp đồng thế chấp giữa ông C, bà L với Ngân hàng TMCP Phương N; không chấp nhận yêu cầu đề nghị phát mại của Ngân hàng S về nhà đất của ông L, bà T khi ông C, bà L không trả được nợ; Buộc Ngân hàng S phải trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà ở thửa 101, TBĐ số 12 thôn Nhân Hòa, xã T, huyện T, Tp. Hà Nội cho ông L bà T.
- Giành việc khởi kiện cho các đương sự về việc vay nợ bằng vụ án khác khi có yêu cầu.
Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Không đồng ý bản án sơ thẩm, ông S bà H và Ngân hàng S có đơn kháng cáo.
- Ông S bà H kháng cáo không đồng ý cho Ngân hàng S xử lý tài sản đảm bảo là nhà, đất của ông, bà tại thửa 170, TBĐ số 3, xã T và đề nghị hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông, bà với bà V.
- Ngân hàng S kháng cáo đề nghị Tòa án chấp nhận hợp đồng bảo lãnh thế chấp giữa ông C bà L với Ngân hàng, đề nghị được xử lý tài sản đảm bảo là nhà đất tại thửa 101, TBĐ số 12, thôn Nhân Hòa, xã T mà hiện gia đình bà T, ông L đang quản lý sử dụng.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 137/2017/DS-PT ngày 21/08/2017 (Quyết định sửa chữa, bổ sung Bản án số 35/2017/QĐ-SCBSBA ngày 26/09/2017) của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:
- Hủy một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2016/DS-ST ngày 28/9/2016 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng và xử cụ thể như sau:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của VAMC do S đại diện theo ủy quyền về việc đòi nợ theo hợp đồng tín dụng 0127/04/11 HĐTD-CN ngày 15/04/2011 giữa Ngân hàng TMCP Phương N (nay là Ngân hàng S) đối với ông Bùi Mạnh C và bà Nguyễn Thị Minh L.
Buộc ông Bùi Mạnh C, bà Nguyễn Thị Minh L phải trả số nợ là: 12.102.287.500đ tính đến ngày 28/9/2016 cho VAMC do S đại diện theo ủy quyền bao gồm nợ gốc 4.900.000.000đ, lãi trong hạn 4.866.941.667đ, lãi quá hạn 2.335.345.833đ.
- Trường hợp ông C, bà L không trả được nợ thì VAMC do S đại diện có quyền đề nghị cơ quan thi hành án xử lý tài sản đảm bảo là:
+ Quyền sử dụng đất và tài sản trên đất tại thửa 101, tờ bản đồ số 12 thôn Nhân Hòa, xã T, huyện T, TP. Hà Nội mà ông C, bà L thế chấp theo Hợp đồng thế chấp số công chứng 3170-11 quyền số 2, ngày 15/4/2011 tại phòng Công chứng số 1 thành phố Hà Nội để thu hồi nợ đối với số nợ gốc 2.300.000.000đ, tính đến ngày 28/9/2016 số nợ gốc của khoản vay này là 2.200.000.000đ và lãi là 3.313.052.250đ, tổng cộng cả gốc và lãi của số nợ này là: 5.513.052.250đ.
+ Quyền sử dụng đất tại thửa 170 tờ bản đồ số 3 xã T, huyện T, TP. Hà Nội mà ông Đ bà V thế chấp theo hợp đồng thế chấp số 3171-11 quyển số 2 ngày 15/04/2011 tại phòng Công chứng số 1 Thành phố Hà Nội để bảo đảm cho khoản vay 2.700.000.000đ của ông C, bà L tính đến ngày 28/9/2016 số nợ gốc của khoản vay này là 2.700.000.000đ, lãi là 3.889.235.250đ; tổng cộng cả gốc và lãi là: 6.589.235.250đ.
Không chấp nhận yêu cầu của VAMC về việc yêu cầu xử lý tài sản gắn liền với đất thửa 170 tờ bản đồ số 3 T, huyện T, Hà Nội. Gia đình ông S, bà H được tiếp tục quyền sở hữu, sử dụng các tài sản gắn liền với diện tích đất này.
- Hủy phần giải quyết yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Tiến L, bà Nguyễn Thị T về việc hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất tại thửa số 101, tờ bản đồ số 12 thôn Nhân Hòa, xã T, huyện T, Hà Nội giữa ông Nguyễn Tiến L, bà Nguyễn Thị Minh T với bà Nguyễn Thị M và giữa bà Nguyễn Thị M với ông Bùi Mạnh C, bà Nguyễn Thị Minh L.
- Hủy phần giải quyết yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị H về việc hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 170 tờ bản đồ số 3 xã T, huyện T, Hà Nội giữa ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị H với ông Phí Đình Đ, bà Phùng Thị V.
Giao Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng giải quyết lại từ giai đoạn sơ thẩm đối với các yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Tiến L, bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị H theo thủ tục chung theo hướng xác định 5 các hợp đồng chuyển nhượng này vô hiệu do giả tạo và xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
Về số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm do bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Tiến L, ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị H đã nộp ngày 27/2/2014 và ngày 11/3/2014 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, Hà Nội sẽ được quyết định khi yêu cầu độc lập của các ông bà được giải quyết lại từ giai đoạn sơ thẩm.
Ngày 07/12/2017, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng đã thụ lý giải quyết vụ án. Quá trình Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng thụ lý, giải quyết lại vụ án theo trình tự sơ thẩm đã xác định lại tư cách đương sự tham gia trong vụ án: Nguyên đơn là ông Nguyễn Tiến L, bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị H; bị đơn là bà Nguyễn Thị M; các đương sự khác tham gia trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ( theo đề nghị của Nguyên đơn tại bút lục 1381 và bút lục 1383).
* Nguyên đơn ông Nguyễn Tiến L, bà Nguyễn Thị T thống nhất trình bày: Ngày 06/01/2011, giữa vợ chồng ông L, bà T và bà Nguyễn Thị M đã ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để chuyển nhượng đất tại thửa đất số 101, tờ bản đồ số 12, thôn Nhân Hòa, xã T, huyện T, Thành phố Hà Nội (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 454916 do UBND huyện T cấp ngày 30/12/2005 đứng tên ông Nguyễn Tiến L, bà Nguyễn Thị T, tài sản gắn liền với đất nhà bê tông 02 tầng diện tích xây dựng 68m2). Hợp đồng công chứng tại Văn phòng công chứng Thái H, số công chứng 17.2011/CNQSDĐ, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 06/01/2011 (sau đây gọi tắt là nhà đất tại thửa đất số 101). Thực chất không có việc chuyển nhượng tài sản trên mà do vợ chồng ông L có vay bà M số tiền 01 tỷ đồng thể hiện tại "Bản cam kết và thỏa thuận về tài sản ngày 22/03/2011". Nội dung: Bên thứ nhất đã ký Hợp đồng chuyển nhượng công chứng để chuyển nhượng cho bên thứ hai thửa đất số 101. Việc ký kết hợp đồng nêu trên chỉ là hình thức để làm thủ tục vay vốn tại Ngân hàng mà Bên thứ hai không được phép chuyển nhượng hoặc tặng cho bất kỳ cá nhân, tổ chức nào khác và Bên thứ nhất có thỏa thuận vay Bên thứ hai số tiền là 1.000.000.000đ (một tỷ đồng). Trong thời hạn 5 năm Bên thứ nhất trả hết số tiền nêu trên cho Bên thứ hai thì Bên thứ hai có trách nhiệm phải trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Bên thứ nhất. Ngày 10 (mùng mười) hàng tháng, Bên thứ nhất có trách nhiệm thanh toán cho Bên thứ hai số tiền lãi với lãi suất từ 1,35 đến 1,5%/01 tháng đối với số tiền mà Bên thứ nhất đã vay của Bên thứ hai. Trong thời hạn 5 năm, Bên thứ hai không được phép chuyển nhượng thửa đất trên cho người khác mà chỉ được quyền thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự cho Bên thứ ba vay vốn tại Ngân hàng.
Vợ chồng ông L đã nhận đủ số tiền 01 tỷ đồng. Ông bà đã trả được một phần gốc, lãi và xác định số tiền gốc vợ chồng ông bà còn nợ bà M là 600.000.000đồng. Ông bà đồng ý trả số tiền gốc này; không yêu cầu Tòa án giải quyết về số tiền lãi đã trả và số tiền lãi chưa trả.
Ngày 18/02/2011, UBND huyện T đã chứng thực việc sang tên nhà đất trên cho bà M.
Sau đó bà M đã tự đi ký chuyển nhượng toàn bộ tài sản nhà đất trên cho ông Bùi Mạnh C, bà Nguyễn Thị Minh L theo Hợp đồng chuyển nhượng 6 quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 08/04/2011. Hợp đồng công chứng tại Văn phòng công chứng Thái H, số công chứng 264.2011/CNQSDĐ, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 08/04/2011.
Vợ chồng ông C, bà L đã thế chấp toàn bộ Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 101 theo Hợp đồng thế chấp ngày 15/04/2011 để vay tiền tại Ngân hàng TMCP Phương N Chi nhánh Giảng Võ theo Hợp đồng tín dụng số 0127/04/11/HĐTD-CN ngày 15/04/2011.
Vợ chồng ông L cho rằng 02 hợp đồng chuyển nhượng nêu trên vô hiệu do thực tế giữa vợ chồng ông bà và bà M, giữa bà M với vợ chồng ông C, bà L không có việc chuyển nhượng nhà đất theo nội dung hợp đồng.
Quá trình giải quyết vụ án, vợ chồng ông L và các bên liên quan đã thỏa thuận vợ chồng ông L trả số tiền nợ gốc 2.200.000.000đồng vào Ngân hàng để giải chấp tài sản là nhà đất tại thửa đất số số 101. Các bên đã thực hiện xong thỏa thuận, vợ chồng ông L đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DB 075182 ngày 01/03/2021 (cấp đổi từ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 454916 do UBND huyện T cấp ngày 30/12/2005 cho thửa đất số 101).
Về hiện trạng nhà đất tại thửa đất số 101: Nhà đất giữ nguyên hiện trạng, không thay đổi gì so với thời điểm các bên ký kết hợp đồng chuyển nhượng ngày 06/01/2011.
Về giá trị quyền sử dụng đất và tài sản trên đất: Bà T, ông L không đề nghị Tòa án định giá nhà đất, do đã xác định thiệt hại là số tiền 2.200.000.000đ ông bà đã trả vào Ngân hàng để giải chấp tài sản.
Về những người hiện đang ở trên nhà đất tranh chấp gồm vợ chồng ông L, bà T, và các con là Nguyễn Tiến Th, Hoàng Ngọc D. Bà T xác định nhà đất thuộc thửa đất số 101 nêu trên là của vợ chồng bà T, ông L; những người ở trên đất là ở cùng bà T, ông L; không có quyền lợi, nghĩa vụ gì liên quan đến quyền sở hữu sử dụng nhà đất.
Ông L, bà T yêu cầu Tòa án giải quyết:
- T 02 hợp đồng chuyển nhượng sau vô hiệu gồm: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 06/01/2011 giữa bên chuyển nhượng ông Nguyễn Tiến L, bà Nguyễn Thị T và bên nhận chuyển nhượng bà Nguyễn Thị M, chuyển nhượng nhà đất tại thửa đất số 101; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 08/04/2011 giữa bên chuyển nhượng bà Nguyễn Thị M và bên nhận chuyển nhượng ông Bùi Mạnh C, bà Nguyễn Thị Minh L, chuyển nhượng nhà đất tại thửa đất số 101.
- Đề nghị giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo đó xác định số tiền 2.200.000.000đ ông bà đã trả Ngân hàng để giải chấp tài sản là hậu quả thiệt hại của hợp đồng vô hiệu. Ông bà đề nghị thiệt hại này sẽ chia đều cho hai bên, vợ chồng ông bà chịu thiệt hại là 1.100.000.000đ, bà M chịu thiệt hại là 1.100.000.000đ và bà M phải trả ông bà số tiền này.
Về số tiền vay: ông bà xác nhận hiện còn nợ bà M số tiền gốc là 600.000.000 đồng, đề nghị không tính lãi số tiền này. Ông bà đồng ý thanh toán trả bà M số tiền nợ gốc này.
* Nguyên đơn ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị H thống nhất trình bày: Ngày 17/01/2011, giữa vợ chồng ông S, bà H và bà Phùng Thị V đã ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa đất số 170, tờ bản đồ số 03, xã T, huyện T, Thành phố Hà Nội Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 114009 do UBND huyện T cấp ngày 24/12/2003 đứng tên ông Nguyễn Văn S). Hợp đồng công chứng tại Văn phòng công chứng Thái H, số công chứng 46.2011/CNQSDĐ, quyển số 01 ngày 17/01/2011; Đính chính hợp đồng ngày 20/01/2011 (sau đây gọi tắt là thửa đất số 170). Thực chất không có việc chuyển nhượng tài sản trên mà do ông bà có vay bà M số tiền 400 triệu đồng. Vợ chồng ông bà không có mối quan hệ và cũng không quen biết gì với bà V. Việc bà V đứng tên bên nhận chuyển nhượng đất của vợ chồng ông bà là do bà M sắp xếp, giữa vợ chồng ông và bà V không có bất kỳ thỏa thuận nào.
Tại Bản cam kết và thoả thuận về tài sản ngày 17/01/2011 giữa vợ chồng ông S, bà M đã thỏa thuận: Bên thứ nhất đã ký Hợp đồng chuyển nhượng cho bên thứ hai quyền sử dụng thửa đất số 170, hợp đồng công chứng tại Văn phòng công chứng Thái H, số công chứng 46.2011/CNQSDĐ. Việc ký hợp đồng chuyển nhượng nêu trên chỉ là hình thức để làm thủ tục vay vốn tại Ngân hàng mà Bên thứ hai không được phép chuyển nhượng hoặc tặng cho quyền sử dụng thửa đất nêu trên cho bất kỳ cá nhân, tổ chức nào khác và Bên thứ nhất có thỏa thuận vay Bên thứ hai số tiền là 400.000.000đ (bốn trăm triệu đồng). Trong thời hạn 3 (ba) năm, Bên thứ nhất trả hết số tiền nêu trên cho Bên thứ hai thì Bên thứ hai có trách nhiệm phải trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho Bên thứ nhất. Bên thứ nhất phải tạo điều kiện cho Bên thứ hai thực hiện mọi thủ tục, giấy tờ liên quan đến việc đăng ký sang tên cho Bên thứ hai. Bên thứ nhất đã nhận đủ số tiền là 400.000.000đ. Ngày 10 (mùng mười) hàng tháng, Bên thứ nhất có trách nhiệm phải thanh toán cho Bên thứ hai số tiền lãi với lãi suất từ 1,5 đến 1,7%/01 tháng đối với số tiền mà Bên thứ nhất đã vay của Bên thứ hai. Trong thời hạn 03 (ba) năm, Bên thứ hai không được phép chuyển nhượng thửa đất nói trên cho người khác mà chỉ được quyền thế chấp để đảm bảo nghĩa vụ dân sự cho Bên thứ ba vay vốn tại Ngân hàng. Trường hợp Bên thứ nhất muốn rút tài sản trước thời hạn 03 (ba) năm thì phải báo trước cho Bên thứ hai từ 15 (mười lăm) đến 30 (ba mươi) ngày. Cả hai Bên có trách nhiệm thanh toán số tiền mỗi Bên đã vay để rút tài sản trả lại cho Bên thứ nhất.
Vợ chồng ông S đã vay của bà M tổng số tiền gốc là 400.000.000đ, đã trả 100.000.000đ, còn nợ là 300.000.000đ tiền gốc. Ông S đề nghị không tính lãi của khoản vay, vì các bên đã bị thiệt thòi nhiều cho đến nay; về số tiền lãi đã trả không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông S đồng ý trả bà M số tiền nợ gốc này khi bà M trả lại cho ông bà Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 15/4/2011, bà Phùng Thị V và ông Phí Đình Đ đã thế chấp toàn bộ Quyền sử dụng đất tại thửa đất số 170 để đảm bảo cho khoản vay của ông Bùi Mạnh C, bà Nguyễn Thị Minh L theo Hợp đồng tín dụng số 0127/04/11/HĐTD-CN ngày 15/04/201 tại Ngân hàng TMCP Phương N Chi nhánh Giảng Võ.
Về hiện trạng nhà đất tại thửa đất số 170: Nhà đất giữ nguyên hiện trạng từ năm 2011 cho đến nay, không có sửa chữa, thay đổi gì.
Về giá trị quyền sử dụng đất tại thửa đất số 170: Ông S đưa ra giá trị quyền sử dụng đất là 20.000.000đ/m2. Ông S không yêu cầu Tòa án định giá.
Về những người hiện đang ở trên nhà đất tranh chấp gồm vợ chồng ông S, bà H và các con là anh Nguyễn Văn Tr, chị Nguyễn Thị Đ, anh Nguyễn Tiến Đ1, anh Nguyễn Văn Đ2, anh Phạm Công T. chị Bùi Thị Thanh H, chị Nguyễn Thị H2. Ông S xác định nhà đất thuộc thửa đất số 170 là của vợ chồng ông S, bà H; những người ở trên đất là ở cùng vợ chồng ông bà, không có liên quan gì đến quyền sở hữu sử dụng nhà đất. Ông S không yêu cầu bổ sung người tham gia tố tụng nào khác.
Ông S, bà H yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là bà M, bà V và những người liên quan phải trả lại cho vợ chồng ông bà Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S114009 ngày 24.12.2003 bản gốc mang tên chính chủ Nguyễn Văn S đối với thửa đất số 170 (tuyên hủy việc bà Phùng Thị V đứng tên trên Giấy chứng nhận).
Về số tiền vay nợ giữa vợ chồng ông với bà M: ông bà xác nhận có vay của bà M số tiền 400.000.000 đồng, đã trả 100.000.000 đồng hiện còn nợ 300.000.000 đồng. Đề nghị không tính tiền lãi khoản vay này ( số tiền lãi đã trả không yêu cầu giải quyết), vì các bên đã bị thiệt thòi nhiều. Ông bà đồng ý trả bà M 300.000.000 đồng nợ gốc, khi bà M trả sổ đó cho ông bà.
* Bị đơn bà Nguyễn Thị M trình bày: Bà và vợ chồng ông L, bà T không có quan hệ quen biết gì. Thời điểm 2010, bà có tiền cho vay. Bà có cho vợ chồng ông L, bà T vay số tiền là 1.000.000.000đ để làm ăn. Sau đó, do không trả được nợ và lãi bên ngoài cao nên vợ chồng ông L, bà T nhờ bà làm thủ tục để chuyển khoản vay vào Ngân hàng.
Để vay tiền ngân hàng, bà và vợ chồng ông L, bà T thống nhất vợ chồng ông L bà T làm thủ tục sang tên cho bà nhà đất tại thửa đất số 101 để thế chấp vay vốn. Nhưng do thời điểm đó bà không có hộ khẩu Hà Nội, nên để thuận lợi cho việc vay vốn ngân hàng bà đã nhờ vợ chồng ông Bùi Mạnh C, bà Nguyễn Thị Minh L đứng ra vay tiền của Ngân hàng, và bà đã làm thủ tục sang tên cho vợ chồng ông C, bà L nhà đất của ông L, bà T để thế chấp. Bà xác định thực tế không có việc chuyển nhượng nhà đất giữa vợ chồng ông L, bà T với bà; giữa bà với vợ chồng ông C, bà L. Việc các bên ký công chứng hợp đồng chuyển nhượng tại Văn phòng công chứng Thái H chỉ để làm thủ tục vay vốn Ngân hàng.
Về số tiền vay một tỷ đồng của vợ chồng ông L, bà T với bà, các bên có làm bản cam kết và thoả thuận về tài sản ngày 22/3/2011.
Đến thời điểm hiện tại, vợ chồng ông L, bà T đã giải chấp được tài sản đảm bảo là nhà đất tại thửa đất số 101. Ông L, bà T đề nghị xác định thiệt hại của hợp đồng vô hiệu là số tiền 2.200.000.000đ đã trả Ngân hàng để giải chấp tài sản, mỗi bên chịu 1/2, bà phải trả cho ông L bà T số tiền 1.100.000.000đ; ông L bà T trả bà M số tiền gốc còn nợ là 600.000.000đ, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết về số tiền lãi đã trả và số tiền lãi chưa trả. Bà nhất trí với yêu cầu nêu trên của ông L, bà T. Ngoài ra bà không có yêu cầu hay ý kiến đề nghị nào khác.
Giữa bà và vợ chồng ông S, bà H không có quan hệ quen biết gì. Thời điểm 2010, bà có cho vợ chồng ông S, bà H vay số tiền là 400.000.000đ (bốn trăm triệu) để làm ăn. Sau đó, do lãi bên ngoài cao nên vợ chồng ông S, bà H nhờ bà làm thủ tục để chuyển khoản vay vào Ngân hàng.
Để vay tiền ngân hàng, bà và vợ chồng ông S, bà H thống nhất làm thủ tục sang tên cho bà Phùng Thị V (người bà M quen biết qua làm ăn) quyền sử dụng đất tại thửa đất số 170 để bà V thế chấp bảo đảm cho khoản vay do ông C, bà L đứng tên vay cho bà tại Ngân hàng. Bà xác định thực tế không có việc chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông S, H với bà V. Việc các bên ký công chứng hợp đồng chuyển nhượng nêu trên chỉ để làm thủ tục vay vốn Ngân hàng.
Về số tiền vay 400 triệu đồng của vợ chồng ông S, bà H với bà, các bên có làm bản cam kết và thoả thuận về tài sản ngày 17/01/2011. Về nợ gốc, vợ chồng ông S, bà H đã trả cho bà 100 triệu đồng. Về việc trả lãi, vợ chồng ông S đã trả được một thời gian, cụ thể bà không nhớ, bà không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết về số tiền lãi của khoản vay này cũng như số tiền lãi đã trả.
Về yêu cầu của vợ chồng ông S, bà H đề nghị tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông bà và bà V, giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, giải quyết quan hệ vay nợ giữa vợ chồng ông S, bà H với bà, bà đề nghị Toà giải quyết theo quy định của pháp luật. Bà bị vỡ nợ nhiều năm nay, và cho đến nay đang cố gắng để phối hợp giải quyết hậu quả, còn rất nhiều khó khăn. Bà không biết hậu quả của hợp đồng vô hiệu nêu trên là gì, nên không đưa ra yêu cầu cụ thể gì về vấn đề này. Bà có quan điểm đề nghị vợ chồng ông S, bà H và bà sẽ cùng phối hợp để làm việc với Ngân hàng, làm sao để ngân hàng miễn giảm một phần gốc lãi để các bên có thể trả được nợ, rút tài sản thế chấp trả về cho vợ chồng ông S, bà H.
Về việc ông S đưa ra ý kiến xác định giá đất tại thửa đất số 101 là 20.000.000đ/1m2, bà M không có ý kiến gì khác. Bà M không đề nghị Tòa án định giá để xác định giá đất.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Phùng Thị V, ông Phí Đình Đ trình bày: Thời điểm năm 2011, do có quan hệ quen biết, bà Nguyễn Thị M nhờ bà đứng tên nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông S, bà H thửa đất số 170 để thế chấp cho vợ chồng ông C, bà L vay vốn ngân hàng. Việc vay mượn của ông C, bà L tại Ngân hàng, quan hệ giữa ông C bà L với bà M, giữa bà M và vợ chồng ông S bà H như thế nào bà V không biết và không có liên quan gì.
Bà V xác nhận giữa bà V và vợ chồng ông S bà H không có việc chuyển nhượng đất. Mọi việc liên quan đến nội dung mua bán đất theo Hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 17/01/2011 là do bà M sắp xếp, liên hệ. Bà V chỉ ra Văn phòng công chứng Thái H ký hợp đồng, không gặp gỡ trao đổi thống nhất gì với vợ chồng ông S, bà H về nội dung hợp đồng, không xem đất, không trả tiền, không bàn giao đất.
Ông Phí Đình Đ không biết và không liên quan gì đến nội dung chuyển nhượng nêu trên.
Về yêu cầu của ông S bà H đề nghị Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng, giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu trả lại tên sổ đỏ cho ông S bà H, bà V đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật, bà không được hưởng lợi ích gì từ hợp đồng này do đó không có liên quan gì đến hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Ông S xác định giá đất tại thửa đất số 170 là 20.000.000đ/1m2 bà V không có ý kiến phản đối hay đề nghị gì vì bà không liên quan.
Quá trình giải quyết vụ án trước đây, bà V có trình bày là có chuyển cho bà M số tiền 300.000.000đ trả tiền mua đất. Về khoản tiền này, bà V tự giải quyết với bà M, không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.
Bà V xin vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án.
- Ông Bùi Mạnh C, bà Nguyễn Thị Minh L trình bày: Ông C bà L khai đứng tên vay hộ bà M số tiền 5.000.000.000đ, tài sản thế chấp là nhà đất tại thửa đất số 101 và thửa đất số 170. Việc sang tên sổ đỏ các thửa đất trên là để thế chấp Ngân hàng. Thực tế giữa các bên không có việc chuyển nhượng đất. Toàn bộ số tiền vay từ Ngân hàng, ông bà đưa cho bà M. Việc bà M sử dụng như thế nào đối với số tiền này thì ông bà không biết.
- Văn phòng Công chứng Thái H trình bày:
Ngày 06/01/2011 Văn phòng công chứng Thái H có ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa ông Nguyễn Tiến L và vợ là bà Nguyễn Thị T với bà Nguyễn Thị M về thửa đất số 101 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 454916 cấp ngày 30/12/2005, số công chứng 17.2011/CNQSDĐ.
Ngày 17/01/2011 Văn phòng công chứng Thái H có ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn S và vợ là bà Nguyễn Thị H với bà Phùng Thị V về thửa đất số 170 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 114009 cấp ngày 24/12/2003, số công chứng 46.2011/CNQSDĐ.
Văn phòng công chứng Thái H ký hai hợp đồng trên là hoàn toàn đúng pháp luật vì tại thời điểm ký hai hợp đồng này các bên đều có năng lực hành vi dân sự phù hợp với quy định của pháp luật. Các bên hoàn toàn tự nguyện thỏa thuận giao kết hợp đồng, không bên nào ép buộc, lừa dối bên nào, điều này thể hiện rất rõ trong hồ sơ mà Văn phòng công chứng đã cung cấp cho Quý Tòa. Mục đích, nội dung của Hợp đồng không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Đối tượng của hợp đồng là có thật.
Ông Nguyễn Tiến L và vợ là bà Nguyễn Thị T yêu cầu hủy hợp đồng ký với bà Nguyễn Thị M về thửa đất số 101; ông Nguyễn Văn S và vợ là bà Nguyễn Thị H yêu cầu hủy hợp đồng ký với bà Phùng Thị V về thửa đất số 170 với lý do hai hợp đồng trên là hợp đồng giả tạo nhằm che dấu hợp đồng vay tiền. Việc này Văn phòng công chứng hoàn toàn không biết. Nếu có việc đó thì đây là sự lừa dối công chứng viên, họ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về vấn đề này như đã cam kết trong hợp đồng và bản cam kết của họ lưu trong hồ sơ. Hợp đồng trên đã hoàn tất, Văn phòng công chứng Thái H cũng như công chứng viên hoàn toàn không chịu trách nhiệm gì đối với việc công chứng hai hợp đồng nêu trên.
- Ủy ban nhân dân huyện T trình bày:
Ngày 17/01/2011, ông Nguyễn Văn S và vợ là bà Nguyễn Thị H có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 170, tờ bản đồ số 03, diện tích 190m2 cho bà Phùng Thị V được Văn phòng công chứng Thái H chứng nhận theo số công chứng 46.2011/CNQSDĐ ngày 17/01/2011. Bà Phùng Thị V đã nộp thuế thu nhập cá nhân, lệ phí trước bạ, đăng ký biến động và đã được phòng Tài nguyên và Môi trường xác nhận thay đổi ngày 23/02/2011. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Phùng Thị V tại thửa đất số 170, tờ bản đồ số 03, diện tích 190m2 được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Ngày 06/01/2011, ông Nguyễn Tiến L và bà Nguyễn Thị T có hợp đồng 11 chuyển nhượng quyền sử dụng đất toàn bộ thửa đất số 101, tờ bản đồ số 12, diện tích 266m2 cho bà Nguyễn Thị M được Văn phòng công chứng Thái H chứng nhận theo số công chứng 17.2011/HĐGD ngày 06/01/2011. Bà Nguyễn Thị M đã đăng ký biến động và đã được phòng Tài nguyên và Môi trường xác nhận thay đổi ngày 18/02/2011. Ngày 08/04/2011, bà Nguyễn Thị M có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho ông Bùi Mạnh C và vợ là Nguyễn Thị Minh L được Văn phòng công chứng Thái H chứng nhận theo số công chứng 264.2011/CNQSD Đ ngày 08/04/2011. Ông Bùi Mạnh C đã thực hiện nộp thuế thu nhập cá nhân, lệ phí trước bạ, đăng ký biến động và đã được phòng Tài nguyên và Môi trường xác nhận thay đổi ngày 09/04/2011. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Bùi Mạnh C và bà Nguyễn Thị Minh L tại thửa đất số 101, tờ bản đồ số 12, diện tích 266m2 tại thôn Nhân Hòa, xã T đã được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
- Công ty TNHH MTV Q Việt Nam (VAMC) trình bày:
Đề nghị Tòa án giữ nguyên nội dung Bản án phúc thẩm số 137/2017/DS-PT ngày 21/8/2017 của Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội về nội dung VAMC có quyền yêu cầu phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ, công nhận việc sang tên thế chấp đối với 2 tài sản bảo đảm là đúng quy định của pháp luật. Quá trình Tòa án quận Hai Bà Trưng giải quyết vụ án, VAMC (do S đại diện) và các đương sự có liên quan đã thực hiện việc giải chấp đối với tài sản thế chấp là nhà đất tại thửa đất số 101, tờ bản đồ số 12, thôn Nhân Hòa, xã T, huyện T, Hà Nội.
- Anh Nguyễn Văn Tr, chị Nguyễn Thị Đ, anh Nguyễn Tiến Đ1, anh Nguyễn Văn Đ2, anh Phạm Công T, chị Bùi Thị Thanh H, chị Nguyễn Thị H2 trình bày:
Các anh chị là con của ông S, bà H, cùng ở trên nhà đất tại thửa đất số 101, anh Đ1 có đóng góp công sức cùng bố mẹ xây dựng nhà, anh chị em khác không đóng góp gì vào khối tài sản của bố mẹ. Đề nghị Tòa án xem xét giải quyết để ông S, bà H lấy lại nhà đất.
- Anh Nguyễn Tiến Th, chị Hoàng Ngọc D trình bày:
Anh Th là con của ông L, bà T, sống cùng với bố mẹ tại nhà đất thuộc thửa đất số 101, nhà đất này là của bố mẹ anh. Anh đề nghị Tòa án xem xét giải quyết để bố mẹ anh được lấy lại nhà đất.
Năm 2020, chị D kết hôn với anh Nguyễn Tiến Th và về ở cùng ông L bà T tại nhà đất thuộc thửa đất số 101. Chị D đề nghị Tòa án xem xét giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà T, ông L đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho gia đình.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 113/2022/DS-ST ngày 27/9/2022 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Tiến L đối với bà Nguyễn Thị M về yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, giải quyết quan hệ vay tài sản.
1.1. T bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 06/01/2011 (giữa bên chuyển nhượng là ông L, bà T và 12 bên nhận chuyển nhượng là bà M, chuyển nhượng nhà đất tại thửa đất số 101, số công chứng 17.2011/CNQSDĐ, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD Văn phòng công chứng Thái H); và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 08/04/2011 (giữa bên chuyển nhượng là bà M và bên nhận chuyển nhượng là ông C, bà L, số công chứng 264.2011/CNQSDĐ, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD Văn phòng công chứng Thái H) vô hiệu.
1.2. Về hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Xác định giá trị thiệt hại do hợp đồng vô hiệu là số tiền bà T ông L phải trả để giải chấp tài sản là 2.200.000.000đ, chia đều cho hai bên; vợ chồng bà T, ông L chịu một nửa tương ứng với số tiền là 1.100.000.000đ; bà M chịu một nửa tương ứng với số tiền là 1.100.000.000đ.
Buộc bà Nguyễn Thị M phải trả cho bà T, ông L số tiền là 1.100.000.000đ (một tỷ một trăm triệu đồng). Ghi nhận ý kiến của bà T về việc xác định bà M đã thanh toán cho vợ chồng bà số tiền là 100.000.000đ (một trăm triệu đồng). Bà M còn phải thanh toán cho vợ chồng bà T ông L số tiền là 1.000.000.000đ (một tỷ đồng).
1.3. Về số tiền vay của vợ chồng bà T ông L và bà M:
Xác định bà T ông L nợ bà M số tiền nợ gốc 600.000.000đ (sáu trăm triệu đồng) của khoản vay theo Bản cam kết và thỏa thuận về tài sản ngày 22/03/2011 giữa các bên.
Buộc vợ chồng bà T ông L phải trả bà M số tiền 600.000.0000đ (sáu trăm triệu đồng).
Các bên không yêu cầu Tòa án giải quyết về số tiền lãi đã trả và số tiền lãi chưa trả của khoản vay này, nên Tòa án không xem xét.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị H đối với bà Nguyễn Thị M về yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, giải quyết quan hệ vay tài sản.
2.1. T bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/01/2011 (giữa bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị H với bên nhận chuyển nhượng là bà Phùng Thị V, chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa đất số 170, tờ bản đồ số 03, xã T, huyện T, Thành phố Hà Nội, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 114009 do UBND huyện T cấp ngày 24/12/2003 đứng tên ông Nguyễn Văn S, số công chứng 46.2011/CNQSDĐ, quyển số 01 Văn phòng công chứng Thái H, Đính chính hợp đồng ngày 20/01/2011) là vô hiệu.
2.2. Về hậu quả của hợp đồng vô hiệu:
Xác định giá trị thiệt hại và phần thiệt hại mỗi bên phải chịu do hợp đồng vô hiệu: Giá trị thiệt hại là giá trị quyền sử dụng đất tại thửa đất số 170 thời điểm giải quyết vụ án là 3.800.000.000đ (= 20.000.000đ/1m2 x 190m2). Bà M chịu 60% lỗi và thiệt hại xảy ra tương ứng với số tiền 2.280.000.000đ (= 3.800.000.000đ x 60%). Vợ chồng ông S bà H chịu 40% lỗi và thiệt hại xảy ra tương ứng với số tiền 1.520.000.000đ (= 3.800.000.000đ x 40%). Buộc bà M phải bồi thường trả ông S bà H số tiền là 2.280.000.000đ (hai tỷ, hai trăm tám mươi triệu đồng).
2.3. Về số tiền vay của vợ chồng ông S bà H và bà M:
Xác định ông S bà H nợ bà M số tiền nợ gốc 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng) của khoản vay theo Bản cam kết và thoả thuận về tài sản ngày 17/01/2011 giữa các bên.
Buộc vợ chồng ông S, bà H phải trả bà M số tiền 300.000.0000đ (ba trăm triệu đồng).
Các bên không yêu cầu Tòa án giải quyết về số tiền lãi đã trả và số tiền lãi chưa trả của khoản vay này, nên Tòa án không xem xét.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm, ông S, bà H là nguyên đơn trong vụ án kháng cáo phần giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu vì xác định lỗi không đúng, việc giải quyết trong bản án sơ thẩm không có căn cứ pháp luật, cần buộc bà Nguyễn Thị M, bà Phùng Thị V và những người liên quan trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S114009 do UBND huyện T cấp ngày 24/12/2003 mang tên Nguyễn Văn S cho gia đình ông S.
Tại phiên tòa: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn S vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo. Ông S cho rằng lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu có một phần lỗi của ông và bà H, tuy nhiên tại thời điểm ông và bà H ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất là chỉ nhằm mục đích để bà M cho vợ chồng ông vay số tiền 400.000.000 đồng, nhưng sau đó bà M lại đi thế chấp vay 5.000.000.000 đồng. Do vậy ông và bà H chỉ chịu 10% lỗi.
Các đương sự xác nhận ngoài các tài liệu chứng cứ đã nộp cho Tòa án thì không còn tài liệu chứng cứ gì khác để nộp cho Tòa án.
Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông S sau khi tóm tắt nội dung vụ án và phân tích nội dung vụ án có quan điểm: Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông S, bà H và bà V là đúng. Tuy nhiên việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định lỗi của ông S, bà H là 40% và bà M 60% là không đúng, bởi lẽ tại thời điểm ông S, bà H ký hợp đồng chuyển nhượng chỉ nhằm mục đích để bà M cho vay 400.000.000 đồng, nhưng sau đó bà M lại thế chấp cho Ngân hàng để vay 5.000.000.000 đồng, việc thực hiện hợp đồng thế chấp là do bà M và bà V thực hiện ông S, bà H không biết, nên bà M và bà V phải chịu toàn bộ lỗi. Mặt khác Hợp đồng mua bán bị vô hiệu, thì hợp đồng thế chấp cũng vô hiệu. Nên Tòa án cấp sơ thẩm phải xác định hợp đồng thế chấp vô hiệu và hủy cả hợp đồng thế chấp số 3171-11 ngày 15/4/20011. Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án dân sự sơ thẩm số 113/2022/DS-ST ngày 27/9/2022 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Các đương sự trong vụ án chấp hành quyền, nghĩa vụ theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị H và căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự sửa bản án dân sự sơ thẩm số 113/2022/SD-ST ngày 27/9/2022 của Toà án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội theo hướng xác định lỗi dẫn đến Hợp đồng chuyển nhượng ngày 17/01/2011 vô hiệu là do bà M và buộc bà M phải thành toán trả cho ông S bà H giá trị 190m2 đất là 3.800.000.000 đồng.
Về án phí: các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:
[1].Về tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị H làm trong thời hạn luật định. Người kháng cáo đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm, nên việc kháng cáo là hợp lệ. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội giải quyết là đúng thẩm quyền.
Quá trình giải quyết Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà H, nhưng tại phiên tòa hôm nay bà H vắng mặt không có lý do, nên coi như bà H đã từ bỏ quyền kháng cáo, do vậy Tòa án đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu kháng cáo của bà H.
Về Người tham gia tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân thành phố đã tống đạt hợp lệ các văn bản của Tòa án cho các đương sự, tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay các đương sự là ông Nguyễn Tiến L, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị H; bà Nguyễn Thị M, ông Phí Đình Đ, bà Phùng Thị V, ông Bùi Mạnh C, bà Nguyễn Thị Minh L, Văn phòng công chứng Thái H, Ủy ban nhân dân huyện T, thành phố Hà Nội, anh Nguyễn Văn Tr, chị Nguyễn Thị Đ, anh Nguyễn Văn Đ2, anh Phạm Công T, chị Bùi Thị Thanh H, chị Nguyễn Thị H2, anh Nguyễn Tiến Th, chị Hoàng Ngọc D đều vắng mặt. Căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2]. Về nội dung: Hội đồng xét xử nhận thấy, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 06/01/2011 giữa bên chuyển nhượng là ông L, bà T và bên nhận chuyển nhượng là bà M, chuyển nhượng nhà đất tại thửa đất số 101, số công chứng 17.2011/CNQSDĐ, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 06/01/2011, Văn phòng công chứng Thái H; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 08/04/2011 giữa bên chuyển nhượng là bà M và bên nhận chuyển nhượng là ông C, bà L, chuyển nhượng nhà đất tại thửa đất số 101, số công chứng 264.2011/CNQSDĐ, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 08/04/2011, Văn phòng công chứng Thái H; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 20/01/2011 giữa bên chuyển nhượng ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị H với bên nhận chuyển nhượng là bà Phùng Thị V chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa đất số 170, tờ bản đồ số 3, xã T, huyện T, Thành phố Hà Nội, số công chứng 46.2011/CNQSDĐ, quyển số 01 tại văn phòng công chứng Thái H được các bên ký kết trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, về hình thức và nội dung phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, quá trình giải quyết các bên chủ thể tham gia ký kết các hợp đồng chuyển nhượng nêu trên là vợ chồng ông L bà T, bà M, vợ chồng ông C bà L, vợ chồng ông S bà H, bà V đều xác nhận việc ký kết các hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ là hình thức để làm thủ tục vay vốn tại Ngân hàng, mục đích các bên hướng tới là để 15 vay tiền nhằm che giấu một giao dịch khác là hợp đồng vay tài sản. Do đó căn cứ các Điều 122,123,127,129,137 Bộ luật dân sự năm 2005, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của bà T, ông L; vợ chồng ông S, bà H tuyên bố các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất ngày 06/01/2011; ngày 08/04/2011 và ngày 17/01/2011 giữa các bên là giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm các đương sự không có kháng cáo, Viện kiểm sát không có kháng nghị, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
* Về giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự năm 2005 thì giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nều không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường. Xét thấy, các Hợp đồng chuyển nhượng trên vô hiệu do giả tạo không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên. Các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Tuy nhiên, sau khi các bên ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và các tài sản trên đất nêu trên, thì bên nhận chuyển nhượng đã sang tên nhà đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đã thực hiện việc thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với các thửa đất trên cho Ngân hàng để đảm bảo cho khoản vay của ông Bùi Mạnh C và bà Nguyễn Minh L.
Tại bản án phúc thẩm số 137/2017/DS-PT ngày 21/8/2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của VAMC;
Buộc vợ chồng ông C, bà L phải thanh toán trả nợ cho VAMC; Trường hợp ông C, bà L không trả được nợ thì VAMC có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án xử lý tài sản thế chấp là thửa đất số 101, tờ bản đồ số 12 thôn nhân Hòa, xã T, huyện T, Hà Nội và thửa đất số 107, tờ bản đồ số 03, xã T, huyện T, Hà Nội để thu hồi nợ. Xét thấy bản án này hiện đã có hiệu lực pháp luật. VAMC đã có đơn xin thi hành án và cơ quan thi hành án đã ra Quyết định thi hành án. Hơn nữa Ngân hàng là người thứ ba ngay tình, nên bà M và bà V không thể hoàn trả cho vợ chồng bà T, ông L và vợ chồng ông S, bà H diện tích nhà đất trên.
* Về hậu quả pháp lý của Hợp đồng vô hiệu giữa bà M và vợ chồng ông L, bà T, ông C, bà L. Hội đồng xét xử xét thấy, quá trình giải quyết vụ án các đương sự đều xác nhận ông C, bà L chỉ là người đứng tên vay hộ bà M và toàn bộ số tiền vay được bà M là người sử dụng, ông C, bà L không được hưởng lợi lộc gì trong các giao dịch.
Năm 2021 vợ chồng ông L, bà T và các bên có liên quan đã thỏa thuận được với nhau, cụ thể vợ chồng ông L, bà T trả số tiền nợ gốc cho Ngân hàng là 2.200.000.000 đồng và ngân hàng đã giải chấp tài sản. Sau khi Ngân hàng giải chấp tài sản thì vợ chồng ông L, bà T đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DB075182 ngày 01/03/2021 ( cấp đổi từ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 454916 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày 30/12/2005 cho thửa đất số 101).
Mặt khác quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm ông L, bà T và bà M thỏa thuận xác định số tiền 2.200.000 đồng vợ chồng ông L, bà T thanh toán trả Ngân hàng để giải chấp tài sản là giá trị thiệt hại của hợp đồng vô hiệu và thiệt hại này sẽ chia đều cho hai bên, cụ thể vợ chồng ông L, bà T chịu 1.100.000.000 đồng, bà M chịu 1.100.000.000 đồng. Ông L, bà T xác nhận bà M đã thanh toán trả cho ông L, bà T 100.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm xác định thiệt hại xảy ra là lỗi của hai bên và buộc ông L, bà T phải chịu ½ thiệt hại là 1.100.000.000 đồng và bà M phải chịu ½ thiệt hại là 1.100.000.000 đồng, bà M phải có nghĩa vụ thanh toán trả cho ông L, bà T số tiền 1.100.000.000 đồng bà M đã thanh toán trả cho ông L, bà T số tiền 100.000.000 đồng nên bà M còn phải thanh toán trả cho ông L, bà Tấm 1.000.000.000 đồng. Sau khi xét xử các đương sự không có kháng cáo, Viện kiểm sát không có kháng nghị, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
* Về hậu quả pháp lý của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu giữa bà V và vợ chồng ông S, bà H. Xét yêu cầu khởi kiện của ông S, bà H và yêu cầu kháng cáo của ông S. Hội đồng xét xử xét thấy, quá trình Tòa án giải quyết vụ án, ông S đề nghị Tòa án xác định giá trị quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 170, tờ bản đố số 3, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội có giá trị là 20.000.000đ/1m2, bà M, bà V không có ý kiến gì khác, các bên đương sự không yêu cầu Tòa án định giá tài sản. Xét thấy giá đương sự đưa ra phù hợp với giá đất theo quy định tại Quyết định số 30/2019/QĐ-UBND ngày 31/12/2019 của UBND Thành phố Hà Nội ban hành quy định và bảng giá các loại đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội áp dụng từ ngày 01/01/2020 đến ngày 31/12/2024. Tòa án sơ thẩm xác định giá trị thiệt hại là 3.800.000.000đ là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết các đương sự đều xác nhận việc các bên ký Hợp đồng chuyển nhượng ngày 17/01/2011chỉ để nhằm mục đích bà M cho vợ chồng ông S, bà H vay 400.000.000 đồng. Sau khi ký Hợp đồng chuyển nhượng bà H đã chuyển cho vợ chồng ông S vay số tiền 400.000.000 đồng, chứ thực tế ông S, bà H chưa nhận được số tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất và cũng không có việc các bên bàn giao nhà đất cho nhau, từ trước đến nay gia đình ông S, bà H vẫn quản lý sử dụng toàn bộ diện tích nhà đất này. Xét thấy, tại thời điểm ký kết Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất trên Văn phòng công chứng Thái H không biết nội dung thỏa thuận khác của ông S, bà H, bà M và bà V, nên Văn phòng Công chứng Thái H không có lỗi. ông S, bà H, bà V, bà M cùng xác lập hợp đồng một cách giả tạo nhằm che giấu một hợp đồng vay tài sản. Trong đó ông S, bà H vì thiếu hiểu biết pháp luật, vì muốn vay tiền nên đã chấp nhận các điều kiện giao dịch do bà M đưa ra. Tuy nhiên mục đích ông S, bà H ký hợp đồng chuyển nhượng là để vay 400.000.000 đồng, nhưng sau đó bà M và bà V đã sang tên nhà đất và thế chấp cho Ngân hàng để vay số tiền 5.000.000.000 đồng. Bà M xác nhận bà là người nhận số tiền 5.000.000.000 đồng của Ngân hàng giải ngân và bà M đã đưa cho ông S, bà H số tiền 400.000.000 đồng theo bản cam kết thảo thuận về tài sản ngày 17/01/2011. Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông S, bà H có lỗi 40% và bà M có lỗi 60% là không đúng. Bởi lẽ căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ thể 17 hiện việc giao kết hợp đồng chuyển nhượng ngày 17/01/2011 được thực hiện giữa vợ chồng ông S, bà H và bà V, tuy nhiên số tiền 5.000.000.000 đồng Ngân hàng giải ngân thì bà M là người sử dụng. Tại phiên tòa hôm nay ông S cũng xác nhận vợ chồng ông cũng có một phần lỗi. Do đó, cần xác định vợ chồng ông S, bà H phải chịu 10% thiệt hại và bà V, bà M phải liên đới chịu 90% thiệt hại theo quy định tại Điều 298 Bộ luật dân sự năm 2005. Nên sửa án sơ thẩm buộc bà V và bà M phải liên đới thanh toán trả cho vợ chồng ông S, bà H 3.800.000.000 đồng x 90%= 3.420.000.000 đồng (Bà V phải chịu ½ và bà M phải chịu ½).
* Đối với yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo của ông S, bà H đề nghị bà M và những người liên quan phải trả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S114009 do UBND huyện T cấp ngày 24/12/2003 đứng tên Nguyễn Văn S cho gia đình ông. Hội đồng xét xử xét thấy, tại Bản án dân sự phúc thẩm số 137/2017/DS-PT ngày 21/08/2017, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của VAMC (đại diện là S), buộc vợ chồng ông bà C, L phải trả nợ cho ngân hàng; trong trường hợp không trả được nợ, có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 170 tờ bản đồ số 3 xã T, huyện T, thành phố Hà Nội để thu hồi nợ. Bản án này đã có hiệu lực pháp luật. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ khoản 2 Điều 133 Bộ luật dân sự, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của ông S, bà H là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
Ngoài ra, tại phiên tòa hôm nay Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông S đề nghị Tòa án hủy hợp đồng thế chấp giữa bà V và Ngân hàng. Hội đồng xét xử xét thấy tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án ông S bà H đều không có yêu cầu hủy Hợp đồng thế chấp. Hơn nữa hợp đồng thế chấp số 3171-11 quyển số 2, ngày 15/4/2011 được lập tại Văn phòng công chứng số 01 thành phố Hà Nội đã được giải quyết bằng một bản án số 137/2017/DS-PT ngày 21/08/2017 ( và quyết định sửa chữa, bổ sung Bản án số 35/2017/QĐ-SCBSBA ngày 26/9/2017), bản án này đã có hiệu lực pháp luật. Căn cứ Điều 293 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì yêu cầu này vượt quá phạm vi xét xử của cấp phúc thẩm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
+ Đối với khoản vay của vợ chồng ông L, bà T và bà M. Xét thấy, quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm chưa hoàn tất thủ tục thụ lý yêu cầu này theo quy định của pháp luật, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết là không đúng, cấp sơ thẩm cần phải rút kinh nghiệm. Nhưng xét thấy việc vay nợ giữa các bên nếu được giải quyết trong vụ án này thì mới triệt để vụ án. Quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm các bên đương sự đều xác nhận vợ chồng ông L, bà T có vay của bà M số tiền là 1.000.000.000 đồng theo nội dung bản cam kết và thỏa thuận về tài sản ngày 22/3/2011. Quá trình thực hiện nghĩa vụ trả nợ ông L, bà T đã thanh toán trả cho bà M một phần nợ gốc hiện ông L, bà T còn nợ bà M 600.000.000 đồng, các bên thồng nhất ông L, bà T phải có nghĩa vụ thanh toán trả bà M 600.000.000 đồng nợ gốc.. Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông L, bà T phải có trách nhiệm thanh toán trả bà M số tiền 600.000.000 đồng nợ gốc là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật. sau 18 khi xét xử các đương sự không có kháng cáo, Viện kiểm sát không có kháng nghị, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
+ Đối với khoản vay của vợ chồng ông S, bà H và bà M. Xét thấy, quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm chưa hoàn tất thủ tục thụ lý yêu cầu này theo quy định của pháp luật, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết là không đúng, cấp sơ thẩm cần phải rút kinh nghiệm. Nhưng xét thấy việc vay nợ giữa các bên nếu được giải quyết trong vụ án này thì mới triệt để vụ án. Quá trình giải quyết vụ án các bên đương sự đều xác nhận vợ chồng ông S, bà H có vay của bà M số tiền là 400.000 đồng theo nội dung bản cam kết và thỏa thuận ngày 17/01/2011 và vợ chồng ông S, bà H đã trả nợ một phần nợ cho bà M. Hiện ông S, bà H còn nợ bà M 300.000.000 đồng tiền gốc. Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông S, bà H phải thanh toán trả cho bà M số tiền nợ gốc 300.000.000 đồng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
Đối với các phần nợ lãi của đối với số tiền nợ gốc trên của ông L, bà T; ông S, bà H các bên đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên cấp sơ thẩm không xem xét là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm các đương sự không có kháng cáo, Viện kiểm sát không có kháng nghị đối với vấn đề này nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về thỏa thuận giữa bà M và bà V (nếu có) về việc sử dụng số tiền vay là thỏa thuận của riêng hai bà, không liên quan đến yêu cầu khởi kiện của các đương sự trong vụ án này, nếu sau này có tranh chấp các bên có quyền khởi kiện bằng một vụ kiện khác theo quy định của pháp luật.
Về án phí: Xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm tính án phí dân sự sơ thẩm không đúng với quy định của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, cụ thể Tòa án cấp sơ thẩm không buộc ông L, bà T và ông S, bà H phải chịu án phí có giá ngạch đối với phần thiệt hại của Hợp đồng vô hiệu là không đúng, Tòa án cấp sơ thẩm cần phải rút kinh nghiệm.
Về án phí phúc thẩm: do sửa án sơ thẩm nên ông S, không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 3 Điều 26; Điều 227; khoản 2 Điều 308; Điều 309 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 129, Điều 137; Điều 298 Bộ luật Dân sự 2005; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 113/2022/DS-ST ngày 27/9/2022 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Tiến L đối với bà Nguyễn Thị M 19 2. T bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 06/01/2011 (giữa bên chuyển nhượng là ông L, bà T và bên nhận chuyển nhượng là bà M, chuyển nhượng nhà đất tại thửa đất số 101, tờ bản đồ số 12, thôn Nhân Hòa, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội, số công chứng 17.2011/CNQSDĐ, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD Văn phòng công chứng Thái H); và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 08/04/2011 (giữa bên chuyển nhượng là bà M và bên nhận chuyển nhượng là ông C, bà L, số công chứng 264.2011/CNQSDĐ, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD Văn phòng công chứng Thái H) vô hiệu do giả tạo.
Buộc bà Nguyễn Thị M phải trả cho bà T, ông L số tiền thiệt hại do hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu là 1.100.000.000đ (một tỷ một trăm triệu đồng), bà M đã thanh toán trả cho vợ chồng ông L, bà T số tiền là 100.000.000đ (một trăm triệu đồng). Bà M còn phải thanh toán cho vợ chồng ông L, bà T số tiền là 1.000.000.000đồng (một tỷ đồng). Bà T ông L phải tự chịu thiệt hại là 1.100.000.000 đồng.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị H đối với bà Nguyễn Thị M.
T bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/01/2011 giữa bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị H với bên nhận chuyển nhượng là bà Phùng Thị V, chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa đất số 170, tờ bản đồ số 03, xã T, huyện T, Thành phố Hà Nội, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 114009 do UBND huyện T cấp ngày 24/12/2003 đứng tên ông Nguyễn Văn S, số công chứng 46.2011/CNQSDĐ, quyển số 01 Văn phòng công chứng Thái H, Đính chính hợp đồng ngày 20/01/2011 là vô hiệu do giả tạo.
Buộc bà Nguyễn Thị M và bà Phùng Thị V phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán trả cho vợ chồng ông S, bà H số tiền thiệt hai do hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu là 3.420.000.000 đồng (Bà V phải chịu ½ và bà M phải chịu ½). Ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị H phải tự chịu thiệt hại là 380.000.000 đồng ( Ba trăm tám mươi triệu đồng).
4. Buộc vợ chồng ông S, bà H phải trả cho bà M số tiền nợ gốc là 300.000.0000đ (ba trăm triệu đồng). Sau khi đối trừ số tiền 1.710.000.000 đồng bà M phải thanh toán thiệt hại do hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu cho ông S, bà H, thì bà M còn phải thanh toán trả cho ông S bà H 1.410.000.000 đồng.
Buộc vợ chồng ông L, bà T phải trả bà M số tiền nợ gốc là 600.000.0000đ (sáu trăm triệu đồng). Sau khi đối trừ số tiền 1.000.000.000 đồng là số tiền thiệt hại do hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu mà bà M phải thanh toán trả cho vợ chồng ông L, bà T, thì vợ chồng ông L, bà T còn phải thanh toán trả cho bà M 400.000.000 đồng ( Bốn trăm triệu đồng).
Đối với phần nợ lãi của các khoản vay trên các bên đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa không xem xét.
5. Bác các yêu cầu khác của các đương sự.
6. Về án phí:
20 + Án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị T phải nộp 36.500.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào 2.500.000 đồng tiền tạm ứng án phí bà đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003949 ngày 27/02/2014 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Bà T còn phải nộp 34.000.000 đồng.
- Ông Nguyễn Tiến L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho ông L 2.500.000 đồng tiền tạm ứng án phí ông đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003948 ngày 27/02/2014 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
- Ông Nguyễn Văn S phải nộp 17.000.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào 2.500.000 đồng tiền tạm ứng án phí ông đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003755 ngày 11/03/2014 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Ông S còn phải nộp 14.500.000 đồng.
- Bà Nguyễn Thị H phải nộp 17.000.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào 2.500.000 đồng tiền tạm ứng án phí bà đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003754 ngày 11/3/2014 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hai bà Trưng, bà H còn phải nộp 14.500.000 đồng.
- Bà Nguyễn Thị M phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch và 86.200.000 đồng án phí dân sự có giá ngạch.
+ Án phí phúc thẩm: Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm, ông bà đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0012833 và 0012832 ngày 24/10/2022 của chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
7. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc người được thi hành án có quyền làm đơn yêu cầu thi hành án ( đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án), thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án số tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự cho đến khi thi hành xong.
8. Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
9. Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 07/2024/DS-PT về yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng nhà đất vô hiệu và vay tài sản
Số hiệu: | 07/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 08/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về