Bản án 41/2023/DS-PT về yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu 

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 41/2023/DS-PT NGÀY 10/02/2023 VỀ YÊU CẦU TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU

Trong các ngày 27/12/2022 và ngày 10/02/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh C xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 321/2022/TLPT-DS ngày 10 tháng 11 năm 2022 về việc “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 230/2022/DS-ST ngày 06/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố C bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 271/2022/QĐXX-PT ngày 28 tháng 11 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị P, sinh năm 1956 Nơi cư trú: Số 1050/1, đường Quang Trung, phường 8, Quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng M, sinh năm 1960; Nơi cư trú: Số 303, đường Lý Văn Lâm, khóm 1, phường 1, thành phố C, tỉnh C (Văn bản uỷ quyền ngày 03/12/2021), (có mặt);

- Bị đơn: Bà Dương Hồng H, sinh năm 1971 (có mặt);

Nơi cư trú: Số 318/36, đường Lý Văn Lâm, khóm 1, phường 1, thành phố C, tỉnh C.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Trần Dương Y N, sinh năm 1996 (có mặt);

2. Chị Trần Dương Y Th, sinh năm 2002 (xin vắng);

Cùng nơi cư trú: Số 318/36, đường Lý Văn Lâm, khóm 1, phường 1, thành phố C, tỉnh C.

3. Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh C.

Địa chỉ trụ sở: Số 07, đường An Dương Vương, phường 7, thành phố C, tỉnh C.

Người đại diện hợp pháp của Ngân hàng: Ông Trần Duy L, sinh năm 1982 và bà Nguyễn Huỳnh Thị Th T1; Địa chỉ: Số 07, đường An Dương Vương, phường 7, thành phố C, tỉnh C là người đại diện theo uỷ quyền (có mặt);

4. Anh Võ Chí Th, sinh năm 1996 (vắng);

Hộ khẩu thường trú: Xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh C.

Tạm trú: Khóm 6, phường 1, thành phố C, tỉnh C.

5. Lê Nguyễn Đoàn D, sinh năm 1997 (vắng);

Hộ khẩu thường trú: xã Tân Lộc, huyện Thới Bình, tỉnh C. Tạm trú: Khóm 6, phường 1, thành phố C, tỉnh C.

6. Phạm Trọng Khang, sinh năm 2002 (vắng);

Hộ khẩu thường trú: Xã Hòa Tân, thành phố C, tỉnh C. Tạm trú: Khóm 6, phường 1, thành phố C, tỉnh C.

7. Huỳnh Thị Phương Tường, sinh năm 2006 (vắng);

Hộ khẩu thường trú: xã Tân Thuận, huyện Đầm Dơi, tỉnh C. Tạm trú: Khóm 6, phường 1, thành phố C, tỉnh C.

- Người kháng cáo: Bà Dương Hồng H, là bị đơn; chị Trần Dương Y N, chị Trần Dương Y Th, là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Đỗ Thị P (do người đại diện hợp pháp là ông Nguyễn Hoàng M) trình bày:

Tại bản án số 146/2021/DS-ST ngày 30/6/2021 của Tòa án nhân dân thành phố C và Quyết định số 45/2021/QĐ-PT ngày 16/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh C, buộc bà Dương Hồng H có trách nhiệm trả bà Đỗ Thị P số tiền 2.498.000.000đ, bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng đến nay bà H không thực hiện mà còn tẩu tán tài sản, tặng cho tài sản các con của bà là Trần Dương Y N, Trần Dương Y Th nhằm trốn tránh trách nhiệm thi hành án. Vì vậy, bà P yêu cầu hủy:

+ Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (QSDĐ) giữa bà Dương Hồng H với chị Trần Dương Y N lập ngày 13/5/2021, phần đất thửa số 104, tờ bản đồ số 21, diện tích 106,20m2 đất ở có nhà tọa lạc đường số 2, khóm 1, phường 1, thành phố C.

+ Hợp đồng tặng cho QSDĐ giữa bà Dương Hồng H với chị Trần Dương Y Th lập ngày 19/7/2021 thuộc thửa số 755, tờ bản đồ số 5, diện tích 100m2 đường số 6, khóm 6, phường 1, thành phố C.

+ Hợp đồng tặng cho QSDĐ giữa bà Dương Hồng H với chị Trần Dương Y Th theo giấy chứng nhận QSDĐ số Đ965472 do Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố C cấp ngày 30/7/2004, thửa số 108, tờ bản đồ số 21, diện tích 104m2 đất ở có nhà tọa lạc đường số 2, khóm 1, phường 1, thành phố C.

Bị đơn bà Dương Hồng H trình bày:

Ngày 13/5/2021, bà có làm hợp đồng tặng cho nhà và đất tọa lạc tại số 318/36 đường Lý Văn Lâm, khóm 1, phường 1, thành phố C, tỉnh C cho con gái là Trần Dương Y N. Đồng thời tặng cho gái là Trần Dương Y Th QSDĐ thửa số 108, tờ bản đồ số 21, tại phường 1, thành phố C với diện tích 104m2. Và ngày 19/7/2021 tặng cho QSDĐ quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số 755, tờ bản đồ số 5, tại đường số 6, khóm 6, phường 1, thành phố C. Tất cả đều được công chứng theo quy định. Suốt quá trình tặng cho, chuyển nhượng đều không xảy ra tranh chấp và thực hiện trình tự theo đúng quy định của pháp luật. Hiện tại các tài sản trên bà đang thế chấp vay tiền tại Ngân hàng ngoại thương.

Mặt khác việc bà vay mượn tiền bà P có thỏa thuận ủy quyền và để cho bà P giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 742m2 tại khóm 6, phường 1, thành phố C nhằm đảm bảo sau này bà không hoàn trả tiền mà bà đã mượn bà P, bà P có quyền bán trừ nợ. Vì vậy, việc bà P yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho giữa bà và các con của bà là không đúng, yêu cầu bác đơn khởi kiện của bà Đỗ Thị P.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trần Dương Y N và Trần Dương Y Th trình bày:

Chị Y N và Y Th được bà H là mẹ ruột tặng cho tài sản như bà H trình bày trên. Quyền sử dụng đất và nhà nhận tặng cho là tài sản của cha mẹ, cha tên Long chết để lại tài sản cho các con, khi các con trưởng thành thì bà H làm thủ tục chuyển tên dưới hình thức tặng cho đúng theo quy định pháp luật, sau đó chị N và Th dùng tài sản tặng cho để bảo lảnh cho bà H vay vốn Ngân hàng. Trước khi tặng cho thì bà H cũng thế chấp tài sản vay vốn. Bà P khởi kiện yêu cầu hủy các hợp đồng tặng cho, chị N và Th không đồng ý.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh C trình bày:

Ngày 06/7/2021 bà Dương Hồng H ký hợp đồng hạn mức với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh C, phòng giao dịch phường 2, thành phố C số 400/2021/HĐCV-CMA-PGD để vay số tiền 2.700.000.000đ, thời hạn 12 tháng. Quá trình thực hiện hợp đồng có sửa đổi 02 lần, lần sửa đổi cuối cùng là ngày 17/11/2021 hạn mức thay đổi là 3.250.000.000đ.

Khi vay bà H có thế chấp 04 tài sản, trong đó có 03 tài sản liên quan đến vụ án gồm:

+ Hợp đồng thế chấp QSDĐ và nhà ở có diện tích đất 104m2, thửa 104, tờ bản đồ số 21, đường số 2, khóm 1, phường 1, thành phố C, ghi nhận tặng cho Trần Dương Y N ngày 18/5/2021.

+ Hợp đồng thế chấp QSDĐ số: 609/2021/HĐ-CMA-PGD ngày 11/10/2021 là Quyền sử dụng đất thửa số 755, tờ bản đồ số 5, diện tích 100m2, ghi nhận tặng cho Trần Dương Y Th ngày 31/8/2021.

+ Hợp đồng thế chấp QSDĐ số: 710/2021/HĐ-CMA-PGD ngày 12/11/2021 là Quyền sử dụng đất thửa số 108, tờ bản đồ số 21, diện tích 104m2 ghi nhận tặng cho Trần Dương Y Th ngày 30/9/2021.

Và hợp đồng thế chấp QSDĐ và nhà ở số: 400/2021/HĐ-CMA-PGD là Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CĐ 944220 cấp ngày 17/10/2016, thửa số 43, tờ bản đồ số 35 diện tích 160m2 ghi nhận chuyển nhượng cho bà Dương Hồng H ngày 21/10/2016.

Hiện tại khách hàng vẫn thanh toán nợ tốt cho Ngân hàng, không phát sinh nợ quá hạn và nợ lãi, đồng thời việc thế chấp đều lập hợp đồng thế chấp, được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm đúng quy định pháp luật. Do đó, Ngân hàng không đồng ý hủy hợp đồng tặng cho có liên quan theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ngoài ra, đại diện Ngân hàng xác định trước đó giữa Ngân hàng và bà H có ký kết các hợp đồng cho vay theo hạn mức vào các ngày 31/10/2019, 09/12/2019, 13/10/2020. Trong đó hợp đồng ngày 13/10/2020 vay số tiền 1.900.000.000đ và thế chấp 02 tài sản là Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CĐ 944220 cấp ngày 17/10/2016, ghi nhận chuyển nhượng cho bà Dương Hồng H, ngày 22/10/2016 và giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và QSDĐ số 5901010278 do UBND tỉnh C cấp ngày 19/01/2004, ghi nhận thừa kế là bà Dương Hồng H.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 230/2022/DS-ST ngày 06/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố C đã quyết định:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuyên bố:

+ Hợp đồng tặng cho nhà và quyền sử dụng đất lập ngày 13/5/2021 giữa bà H với chị Y N nhà có tổng diện tích 106,20m2 và đất diện tích 104m2 tại khóm 1, phường 1, thành phố C vô hiệu. Buộc chị Y N giao trả cho bà H tài sản tặng cho.

+ Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất lập ngày 16/7/2021 giữa bà H với chị Y Th phần đất có diện tích 104m2 tại khóm 1, phường 1, thành phố C vô hiệu.

+ Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất lập ngày 19/7/2021 giữa bà H với chị Y Th phần đất có diện tích 100m2 tại khóm 6, phường 1, thành phố C vô hiệu. Buộc chị Y Th giao trả cho bà H tài sản tặng cho.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo luật định.

Ngày 15/9/2022 và ngày 27/92022 bị đơn bà Dương Hồng H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trần Dương Y N, chị Trần Dương Y Th kháng cáo, yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa:

Đại diện hợp pháp nguyên đơn trình bày: Đồng ý với bản án sơ thẩm, yêu cầu bà H bán tài sản để thanh toán nợ cho bà P.

Bà H và chị Y N trình bày: Giữ nguyên nội dung kháng cáo, yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ khởi kiện của nguyên đơn. Căn cứ kháng cáo: Tài sản tặng cho là tài sản chung của vợ chồng bà H, tại thời điểm ông Long chết các con còn nhỏ, nay các con trưởng thành nên chuyển tên quyền sử dụng cho các con; bà H đã thế chấp các tài sản tặng cho để vay vốn Ngân hàng từ năm 2019; bà H hiện đứng tên hai phần đất và tự nguyện giao để thi hành án, trong đó có một phần đất đã giao cho bà P toàn quyền định đoạt và tại cấp phúc thẩm bà H đã thi hành án được 700 triệu đồng.

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử tiến hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng và các đương sự cũng chấp hành đúng với quyền và nghĩa vụ của các đương sự được pháp luật quy định.

Về nội dung: Áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy các hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và nhà gắn với quyền sử dụng đất. Bản án sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu” là đúng quy định pháp luật. Án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ nội dung khởi kiện của nguyên đơn, cho nên bị đơn và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan kháng cáo.

[2] Xem xét nội dung kháng cáo của bị đơn Dương Hồng H, yêu cầu sửa án bản sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Qua xem xét hồ sơ vụ án thể hiện: Tại bản án số 146/2021/DS-ST ngày 30/6/2021 của Tòa án nhân dân thành phố C và Quyết định số 45/2021/QĐ-PT ngày 16/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh C, buộc bà Dương Hồng H có trách nhiệm thanh toán bà Đỗ Thị P số tiền 2.498.000.000đ. Theo như bị đơn xác nhận việc tặng cho các con tài sản vì đó là tài sản chung của vợ chồng bà (chồng bà tên Long chết khi con còn nhỏ), nay các con trưởng thành nên làm thủ tục về mặt pháp lý chứ thực chất bà đã thế chấp vay tiền, khi tặng cho các con thì được vay thêm một khoản tiền, chứ bà không có giả dối hay tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho bà P.

Để chứng minh cho lời trình bày của bà H, Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Tại thời điểm vay mượn tiền của bà P năm 2016 thì bà H giao cho bà P một giấy chứng nhận QSD đất, và đến ngày 30/7/2019 đôi bên lập hợp đồng ủy quyền được công chứng có nội dung: bà H đứng tên QSD đất thửa 069, 070 tờ bản đồ số 03, tọa lạc khóm 6, phường 6, thành phố C có diện tích 742m2, bà H ủy quyền toàn bộ quyền của bà H đối với thửa đất cho bà P (kể cả quyền được sang bán); theo như bà H xác nhận QSD đất giao cho bà P có giá trị khoảng 02 tỷ đồng. Qua đó cho thấy phía nguyên đơn giữ giấy chứng nhận QSD đất đứng tên bà H và đồng ý nhận ủy quyền có toàn quyền quyết định đối với QSD đất, bà P có quyền sang bán để thu hồi nợ.

- Ngoài các tài sản tặng cho các con và QSD đất ủy quyền cho bà P, thì bà H còn đứng tên 01 phần đất thuộc thửa 43, tờ bản đồ số 35, diện tích 160m2, có xây nhà kiên cố 108,35m2, diện tích sàn 193,37m2 tọa lạc phường 1, thành phố C, theo bà H xác nhận giá trị nhà đất trên 02 tỷ đồng;

- Đối với tài sản tặng cho Y N, Y Th năm 2021, trước khi tặng cho, tại thời điểm còn đứng tên bà H thì vào năm 2019 và năm 2020 đã thế chấp vay vốn 2,7 tỷ đồng tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương, Chi nhánh C. Mặt khác, bà H tặng cho các con vào tháng 7 năm 2021 và Y N, Y Th bảo lãnh vay Ngân hàng tháng 7/2021, bà P khởi kiện đầu năm 2022 là Ngân hàng cho vay trước khi bà P khởi kiện khoảng 06 tháng; tại thời điểm này chưa có tranh chấp liên quan đến tài sản mà Ngân hàng nhận thế chấp, Ngân hàng cho vay thực hiện đúng trình tự, đúng quy định pháp luật, cho nên quyền lợi của Ngân hàng cũng cần được bảo vệ.

- Tại cấp phúc thẩm, bà H đã thi hành được 700.000.000 đồng cho bà P trên số tiền phải thi hành 2.498.000.000 đồng và bà H có đơn gửi Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C tự nguyện giao hai tài sản là QSD đất hiện bà H đứng tên để thi hành án.

- Ngoài ra, tại cấp phúc thẩm Tòa án có văn bản gửi Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C và Chi cục Thi hành án phúc đáp chưa cưỡng chế kê biên hoặc xử lý về tài sản do bà H để thi hành án cho bà P.

Với những căn cứ trên, chưa có cơ sở kết luận bà H lừa dối, nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ, bởi vì ngoài tài sản tặng cho các con bà H còn đứng tên 02 hai thửa đất nhưng chưa được xử lý để thi hành cho bà P; về phía Ngân hàng cũng không có lỗi khi cho vay bởi lẽ Ngân hàng giao dịch với bà H từ năm 2019 và các Hợp đồng vay tài sản thực hiện theo đúng trình tự quy định pháp luật.

[3] Tại cấp phúc thẩm phát sinh chứng cứ mới là bà H thi hành án được 700 triệu đồng, có đơn tự nguyện giao tài sản để thi hành án và với chứng cứ phân tích trên xét thấy không cần thiết phải hủy các hợp đồng tặng cho tài sản, cho nên kháng cáo của bà H được chấp nhận; sửa bản án sơ thẩm.

[4] Kháng cáo của chị Trần Dương Y N, Trần Dương Y Th cùng với nội dung kháng cáo của bà H; kháng cáo của bà H được chấp nhận nên kháng cáo của chị Y N và chị Y Th được chấp nhận.

[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đề nghị y án sơ thẩm, tuy nhiên Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm với những chứng cứ nhận định trên.

[6] Án phí dân sự sơ thẩm bà P là người cao tuổi nên được miễn; Án phí phúc thẩm những đương sự có kháng cáo không phải chịu, đã dự nộp được nhận lại.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Chấp nhận kháng cáo của bà Dương Hồng H, chị Trần Dương Y N và Trần Dương Y Th; Sửa bản án dân sự sơ thẩm số: 230/2022/DS-ST ngày 06/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C.

Căn cứ vào các Điều 26, 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 3 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đỗ Thị P về yêu cầu hủy các Hợp đồng tặng cho:

+ Hợp đồng tặng cho nhà và quyền sử dụng đất lập ngày 13/5/2021 giữa bà Dương Hồng H với chị Trần Dương Y N nhà có tổng diện tích 106,20m2 và đất diện tích 104m2 thuộc thửa số 104, tờ bản đồ 21 tọa lạc tại khóm 1, phường 1, thành phố C, tỉnh C được Phòng công chứng số 1 chứng thực ngày 13/5/2021.

+ Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất lập ngày 16/7/2021 giữa bà Dương Hồng H với chị Trần Dương Y Th phần đất có diện tích 104m2 thuộc thửa số 108, tờ bản đồ 21 tọa lạc tại khóm 1, phường 1, thành phố C, tỉnh C được Văn phòng công chứng Lê Bích Trân chứng thực ngày 16/7/2021.

+ Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất lập ngày 19/7/2021 giữa bà Dương Hồng H với chị Trần Dương Y Th phần đất có diện tích 100m2 thuộc thửa số 755, tờ bản đồ 5 tọa lạc tại khóm 6, phường 1, thành phố C, tỉnh C được Văn phòng công chứng Lê Bích Trân chứng thực ngày 19/7/2021.

2. Án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch: Bà Đỗ Thị P được miễn.

3. Án phí phúc thẩm bà H, chị Y N và Y Th không phải chịu. Các đương sự nộp tạm ứng án phí phúc thẩm tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C được nhận lại toàn bộ. Ngày 27/9/2022 Dương Hồng H đã dự nộp tạm ứng án phí 300.000đ tại biên lai số 0001982; Ngày 22/9/2022 Trần Dương Y N đã dự nộp tạm ứng án phí 300.000đ tại biên lai số 0001969; Ngày 28/9/2022 Trần Dương Y Th đã dự nộp tạm ứng án phí 300.000đ tại biên lai số 0001983.

4. Các quyết định khác của án sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 41/2023/DS-PT về yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu 

Số hiệu:41/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;