TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 29/2024/DS-PT NGÀY 11/04/2024 VỀ YÊU CẦU TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN VÔ HIỆU
Ngày 11 tháng 4 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 130/2023/TLPT-DS ngày 28 tháng 12 năm 2023 về việc “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản vô hiệu”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 51/2023/DS-ST ngày 03 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An bị kháng cáo; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 46/2024/QĐ-PT ngày 11 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn C - Chấp hành viên, công tác tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An; có mặt tại phiên tòa.
- Bị đơn:
+ Anh Nguyễn Trung H, sinh năm 1982; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm A, xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An; có mặt tại phiên tòa.
+ Chị Võ Thị N, sinh năm 1984; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xóm A, xã N, thành phố V, Nghệ An; chỗ ở hiện nay: Số nhà B, ngõ F, đường L, khối Y, phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An; có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Võ Văn L, sinh năm 1960 và bà Trần Thị H1, sinh năm 1961 (vợ của ông L). Người đại diện theo ủy quyền của bà H1: Ông Võ Văn L, sinh năm 1960; đều có địa chỉ cư trú: Số nhà B, ngõ F, đường L, khối Y, phường H, TP ., Nghệ An; ông L có mặt tại phiên tòa.
* Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn C, nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện để ngày 29/8/2022, các lời khai, hòa giải trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Văn C trình bày: Anh Nguyễn Trung H là người phải thi hành nghĩa vụ trả tiền theo Bản án số 86/2018/HS-ST ngày 16/7/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An và Bản án số 648/2019/HS-PT ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. Quá trình tổ chức thi hành án, anh Nguyễn Trung H đã tự nguyện giao tài sản là nhà và đất thuộc thửa đất số 490, tờ bản đồ số 24 tại xóm A, xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An để Chấp hành viên thực hiện quy trình bán đấu giá vào ngày 15/04/2022. Số tiền thu được để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của anh Nguyễn Trung H là 8.893.588.000 đồng. Số tiền anh H còn phải thi hành án là 3.106.412.000 đồng (chưa tính lãi suất chậm thi hành án).
Để có căn cứ thi hành án tiếp, Chấp hành viên đã phối hợp với Phòng C1 Công an tỉnh N (gọi tắt là PC08) tiến hành xác minh điều kiện thi hành án đối với anh Nguyễn Trung H. Kết quả xác minh tại Công văn số 295/PC08 (ĐKX) ngày 30/6/2022 của PC08 cung cấp thông tin, anh Nguyễn Trung H có tài sản chung với chị Võ Thị N (vợ anh H) là 01 chiếc xe ô tô con biển số 37A-xxxxx, nhãn hiệu Toyota, số loại Vios, số máy 2NRX726226; số khung TL4B23M5116201. Tuy nhiên, ngày 13/01/2022 (thời điểm sau khi bản án có hiệu lực pháp luật), vợ chồng anh Nguyễn Trung H và chị Võ Thị N đã bán xe ô tô này cho ông Võ Văn L, sinh năm 1960, địa chỉ: số B, ngõ F, đường L, khối Y, phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An (có hợp đồng mua bán xe ô tô). Đây là hành vi tẩu tán tài sản của anh Nguyễn Trung H nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả tiền cho Ngân hàng TMCP X (E). Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An (gọi tắt là Cục T) đã có văn bản thông báo về việc thi hành án số 978 ngày 09/08/2022 gửi E, nhận ngày 09/08/2022. Quá thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo, E không có công văn trả lời, không thực hiện quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch nên ngày 29/08/2022 Chấp hành viên tiến hành khởi kiện tại Tòa án.
Căn cứ quy định tại khoản 9 Điều 27 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); khoản 1 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 11 Điều 1 Nghị định 33/2020/NĐ-CP), đề nghị Tòa án tuyên vô hiệu Hợp đồng mua bán xe số 131, quyền số 01/2022 TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng C2 lập ngày 13/01/2022 giữa anh Nguyễn Trung H, chị Võ Thị N với ông Võ Văn L.
Anh Nguyễn Trung H trình bày: Anh H thừa nhận quá trình thi hành án dân sự đúng như nguyên đơn trình bày nhưng anh H không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, vì:
Thứ nhất, nguồn gốc chiếc xe ô tô này không hình thành bất hợp pháp. Vợ chồng anh H, chị N thời gian sống chung với nhau ít, chị N sống cùng ông bà ngoại còn anh H lúc ở nhờ nhà chú, khi thì sống ở nhà bố mẹ đẻ. Trong cuộc sống, vợ chồng anh H cũng việc ai người nấy làm, không trao đổi gì với nhau, chỉ thỉnh thoảng liên lạc trao đổi về con cái. Khi chị N mua chiếc xe ô tô rồi thì anh H mới biết. Anh có hỏi chị N là tiền đâu để mua xe thì chị N nói vay của ông bà ngoại (ông L, bà H1) mua xe để chở con đi học. Việc chị N vay tiền của ông L, bà H1 thì anh không hề biết gì, chị N nói vay của ông bà thì anh cũng chỉ biết như vậy. Anh H cũng không có đóng góp gì cũng không sử dụng chiếc xe này.
Thứ hai, tại thời điểm chuyển nhượng, tài sản này không bị kê biên, không bị hạn chế quyền và không có trao đổi thỏa thuận nào khác nên việc chuyển nhượng xe giữa anh H, chị N và ông L là hoàn toàn đúng quy định pháp luật.
Thứ ba, Hợp đồng mua bán xe số 131 do Văn phòng C2 lập ngày 13/01/2022 giữa anh H, chị N với ông Võ Văn L đã được thực hiện đúng quy trình, đúng thủ tục pháp lý nên không có lý do gì để tuyên hủy hợp đồng này.
Thứ tư, anh H cũng không có hành vi tẩu tán tài sản như nguyên đơn đã trình bày. Bởi nếu anh H là người tẩu tán tài sản thì tại sao trong thời gian từ lúc mua xe đến lúc bán xe thì chấp hành viên không xác minh, không kê biên lại tài sản này, cho đến khi chị N bán xe được một thời gian thì chấp hành viên mới khởi kiện.
Chị Võ Thị N trình bày: Chị N không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vì: chiếc xe ô tô là do một mình chị N vay tiền tiết kiệm của bố mẹ đẻ (ông L, bà H1) để mua. Khi chị N vay tiền bố mẹ thì anh H không hề biết gì, chỉ khi mua xe về thì anh H mới biết. Khi vay tiền thì giữa chị N và bà H1 có thỏa thuận hàng tháng chị N sẽ trả dần cho bà H1 từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng. Ngày 28/09/2021, chị N đã chở bà H1 đến Ngân hàng TMCP S chi nhánh N1 (S1) để rút số tiền tiết kiệm 413.410.965 đồng. Sau khi rút tiền về, bà H1 đưa thêm tiền mặt có sẵn cho chị N để đủ tiền xe là 550.000.000 đồng và cùng ngày chị N đến Công ty cổ phần T1 để kí hợp đồng mua xe, đến ngày 01/10/2021, chị N và bà H1 đi nhận xe. Việc vay tiền, rút tiền, hoàn tất thủ tục mua xe diễn ra trong thời gian ngắn khoảng 3-4 ngày, nên không có việc chị mượn tiền để sử dụng vào mục đích khác. Sau khi mua xe, chị mới trả nợ cho bà H1 được vài tháng thì do chị tiêu cuộc sống không đủ nên chị không trả được tiền hằng tháng cho mẹ như đã thỏa thuận. Lúc đó bà H1 có yêu cầu chị trả tiền nhưng chị không có tiền nên chị đề xuất bán xe để trả nợ. Bà H1 nói nếu bán xe thì bán lại cho bố mẹ để bố mẹ sử dụng thì chị đồng ý. Giao dịch chuyển nhượng xe giữa chị sang ông L là hoàn toàn đúng quy định pháp luật. Việc hợp đồng mua bán xe có tên anh H vì trên giấy tờ anh chị vẫn là vợ chồng nhưng thực tế thì anh chị đã sống ly thân từ năm 2020, hai bên ít liên lạc với nhau, giữa anh H và chị N không có sự bàn bạc, thống nhất gì về tài sản hay các vấn đề khác, hai người chỉ thỉnh thoảng trao đổi về việc học tập của con qua điện thoại nhưng rất ít. Khi kí hợp đồng chuyển nhượng xe thì Văn phòng công chứng yêu cầu anh H với chị phải cùng kí vào vì đang là thời kì hôn nhân. Việc chị mua xe hay bán xe là để phục vụ nhu cầu sinh hoạt của chị chứ không liên quan đến anh H. Do đó không có việc chị N tẩu tán tài sản và chị N cũng chưa làm việc với chấp hành viên về chiếc xe này.
Vợ chồng bà Trần Thị H1 và ông Võ Văn L trình bày: Vợ chồng ông L, bà H1 là bố mẹ của chị Võ Thị N. Sự việc chị N (con gái của ông L, bà H1) có vay tiền tiết kiệm của bố mẹ để mua xe đưa đón con đi học là có thật. Quá trình vay tiền, mua xe, bán xe trả nợ cho bố mẹ đúng như chị N trình bày. Số tiền bà H1 cho chị N vay là tiền tiết kiệm để dưỡng già của vợ chồng ông (bà H1 không có nghề nghiệp, ông L chỉ có lương hưu ít ỏi, ngoài ra không có thu nhập gì thêm). Khi thấy con gái không trả được nợ cho bố mẹ như đã cam kết thì bà H1 rất lo lắng nên yêu cầu chị N trả hết nợ đã vay. Khi lập hợp đồng mua bán xe ô tô thì do chị N và anh H đang là vợ chồng hợp pháp nên Văn phòng công chứng yêu cầu phải có anh H cùng kí. Nhưng trên thực tế thì vợ chồng chị N anh H đã trục trặc về tình cảm từ năm 2020, vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến nay. Việc chị N vay tiền ông bà sau khi được bà H1 đồng ý thì chị N đã chở bà H1 đến Ngân hàng S1 (ở đường Q, TP.) để rút sổ tiết kiệm như chị N trình bày là đúng. Tổng số tiền chị N vay bà N là 550.000.000 đồng (hai bên có viết giấy vay tiền). Việc mua bán chiếc xe này giữa ông và chị N, anh H là hoàn toàn hợp pháp chứ không phải để tẩu tán tài sản.
Tại Bản án Dân sự sơ thẩm số 51/2023/DS-ST ngày 03 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã quyết định: Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 117, Điều 122, Điều 430, Điều 431 Bộ luật dân sự; Điều 34, Điều 43, khoản 3 Điều 44 Luật hôn nhân gia đình; khoản 2, khoản 3 Điều 75 Luật thi hành án dân sự, khoản 11 Điều 26 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử: Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu tuyên bố Hợp đồng mua bán xe số 131 do Văn phòng C2 lập ngày 13/01/2022 giữa anh Nguyễn Trung H, chị Võ Thị N với ông Võ Văn L vô hiệu do có dấu hiệu tẩu tán tài sản. Ngoài ra Bản án còn tuyên án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 16 tháng 10 năm 2023, nguyên đơn ông Nguyễn Văn C kháng cáo với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 51/2023/DS-ST ngày 03/10/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán xe số 131, quyền số 1/2022 TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng C2.D1 - Đại Lộ L, thành phố V, tỉnh Nghệ An lập ngày 13/01/2022 giữa ông Nguyễn Trung H, bà Võ Thị N với ông Võ Văn L vô hiệu.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Văn C giữ nguyên nội dung kháng cáo; các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án.
Phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An tại phiên tòa: Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm, Thẩm phán, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng, nguyên đơn, bị đơn, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Văn C, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã hỏi ý kiến của các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không nhưng các đương sự không thỏa thuận được. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung: Ngày 01/10/2021, chị Võ Thị N mua chiếc xe ô tô con loại 05 chỗ ngồi đã được Phòng C1 Công an tỉnh N (PC08) chứng nhận đăng ký ngày 07/12/2021 biển số 37A-xxxxx, nhãn hiệu Toyota, số loại Vios, số máy 2NRX726226; số khung TL4B23M5116201 mang tên Võ Thị N. Anh Nguyễn Trung H (chồng chị N) là người phải thi hành án nghĩa vụ trả tiền theo Bản án số 86/2018/HS-ST ngày 16/7/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An và Bản án số 648/2019/HS-PT ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. Do điều kiện khó khăn và khoản nợ phải thanh toán nên ngày 13/01/2022 chị Võ Thị N đã chuyển nhượng chiếc xe ô tô mang biển số 37A-xxxxx cho ông Võ Văn L theo Hợp đồng mua bán xe số 131, quyển số 1/2022 TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng C2 địa chỉ số G.D1 - Đại Lộ L, thành phố V, tỉnh Nghệ An lập, anh Nguyễn Trung H cùng ký xác nhận tại hợp đồng. Ông Nguyễn Văn C chấp hành viên Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An cho rằng việc chị N, anh H chuyển nhượng chiếc xe ô tô là tài sản chung của vợ chồng; đây là hành vi tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án và khởi kiện yêu cầu tuyên bố Hợp đồng mua bán xe số 131, quyển số 1/2022 TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng C2 địa chỉ số G.D1 - Đại Lộ L, thành phố V, tỉnh Nghệ An lập.
[3] Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Văn C thấy rằng: Căn cứ các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và lời trình bày của các bên đương sự xác định anh Nguyễn Trung H và chị Võ Thị N đăng ký kết hôn năm 2011 và hiện nay vẫn đang là vợ chồng hợp pháp. Chiếc xe ô tô biển kiểm soát 37A-xxxxx, nhãn hiệu Toyota - Vios được Phòng C1 Công an tỉnh N (PC08) cấp giấy chứng nhận đăng ký ô tô (quyển sở hữu tài sản) cho chị Võ Thị N được hình thành trong thời kỳ hôn nhân giữa anh H, chị N vẫn đang tồn tại. Mặt khác, chị N cũng không cung cấp được tài liệu để chứng minh chiếc ô tô này được thừa kế riêng hay được tặng cho riêng. Và anh H, chị N cũng không có văn bản thỏa thuận về việc phân chia tài sản hoặc thỏa thuận chiếc ô tô nêu trên là tài sản riêng của chị N. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định chiếc ô tô biển số 37A-xxxxx là tài sản riêng của chị N trong thời kỳ hôn nhân giữa anh H, chị N là chưa phù hợp với quy định tại Điều 33 và khoản 1 Điều 43 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
Tuy nhiên, xét Hợp đồng mua bán xe số 131 do Văn phòng C2 lập ngày 13/01/2022 giữa anh Nguyễn Trung H, chị Võ Thị N với ông Võ Văn L thấy rằng: Các chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức xã hội nên giao dịch mua bán xe ô tô giữa anh H, chị N với ông L là giao dịch dân sự hợp pháp. Mặt khác, tại thời điểm Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An tiến hành thi hành án tài sản bị kê biên (ngôi nhà 03 tầng và thửa đất số 490, tờ bản đồ số 24 tại xóm A, xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An), chưa tiến hành bán đấu giá tài sản này (bán đấu giá ngày 15/04/2022) thì giao dịch chuyển nhượng chiếc ô tô đã hoàn thành (chuyển nhượng ngày 13/01/2022). Anh H, chị N cũng đã tự nguyện thi hành án bàn giao tài sản bị kê biên theo các bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Văn C cũng xác định và thừa nhận tại thời điểm ngày 13/01/2022, khi chưa đấu giá tài sản bị kê biên của vợ chồng anh H, chị N thì không thể biết được giá bán tài sản bị kê biên đủ, thừa, thiếu như thế nào đối với nghĩa vụ thi hành của anh Nguyễn Trung H người phải thi hành án vì tài sản bị kê biên là tài sản có giá trị lớn và chiếc xe ô tô không bị cơ quan, người có thẩm quyền và cũng chưa bị Chấp hành viên kê biên để đảm bảo thi hành án. Do đó, ông Nguyễn Văn C khởi kiện cho rằng vợ chồng anh H, chị N bán chiếc xe ô tô nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của anh H là không có căn cứ. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án, chị N, anh H và vợ chồng ông L, bà H1 (bố mẹ chị N) cũng xác định nguồn tiền để mua xe chủ yếu từ bố mẹ để chị N cho vay (có các bản sao kê của Ngân hàng...) nên chị N, anh H cũng phải có nghĩa vụ thanh toán khoản nợ này. Tòa án cấp sơ thẩm xác định Hợp đồng mua bán xe ô tô số 131 do Văn phòng C2 lập ngày 13/01/2022 giữa anh Nguyễn Trung H, chị Võ Thị N với ông Võ Văn L có hiệu lực pháp luật và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn C là có căn cứ. Bởi vậy, kháng cáo của ông Nguyễn Văn C không có căn cứ để chấp nhận, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí: Kháng cáo của ông Nguyễn Văn C không được chấp nhận nhưng thuộc trường hợp được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Văn C, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 51/2023/DS-ST ngày 03 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An;
2. Về án phí: Ông Nguyễn Văn C không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản vô hiệu số 29/2024/DS-PT
| Số hiệu: | 29/2024/DS-PT |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nghệ An |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Ngày ban hành: | 11/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về