TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH B
BẢN ÁN 38/2021/DS-ST NGÀY 24/05/2021 VỀ YÊU CẦU TUYÊN BỐ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG THUÊ KI ỐT VÀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TỪ VIỆC CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG
Trong ngày 24/5/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự đã thụ lý số 50/2021/TLST-DS ngày 23/3/2021 về việc “Yêu cầu tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê ki và bồi thường thiệt hại từ việc chấm dứt hợp đồng thuê ki ốt”; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2021/QĐST-DS ngày 07/5/2021 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn:
Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1977.
Địa chỉ: Thôn Đ, xã D, thành phố B, tỉnh B. (Nguyên đơn vắng mặt, có đơn xin xử vắng mặt).
* Bị đơn:
Công ty Cổ phần Đại HY.
Địa chỉ trụ sở: Thôn Đồi Nên, xã Dĩnh Trì, thành phố B, tỉnh B.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Mạnh C – Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc.
Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thanh H, sinh năm 1975. Chức Vụ:
Cán bộ Công ty Cổ phần Đại HY. (vắng mặt, có đơn xin xử vắng mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Chi cục thi hành án dân sự thành phố B.
Do ông Nguyễn Thành B – Chi cục trưởng làm đại diện.
Đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng là ông Phạm Nguyễn K, chấp hành viên. (vắng mặt, có đơn xin xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/3/2021 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai trình bày như sau:
Ngày 15/7/2015 bà Nguyễn Thị T (bên B) và Công ty Cổ phần Đại HY (Bên A) ký hợp đồng thuê ki ốt dịch vụ với nội dung:
Bên A đồng ý cho Bên B thuê 01 ki ốt dịch vụ số 02 thuộc quyền quản lý sử dụng của bên A tại Quyết định số 2267/QĐ-UBND ngày 30/12/2008 của UBND tỉnh B tại địa chỉ: thôn Đồi Nên, xã Dĩnh Trì, thành phố B.
Ki ốt số 02 là ngôi nhà 02 tầng xây liền kề với các ki ốt khác có diện tích một sàn dài 12m x rộng 4,3 = 51,6m2.
Thời gian thuê: kể từ ngày ký hợp đồng 15/7/2015 đến ngày 26/6/2051 tính tròn là 35 năm 11 tháng.
Giá thuê toàn bộ thời gian thuê trên một ki ốt là 238.000.000 đồng.
Giá thuê 1 tháng/1 ki ốt là 238.000.000đ : 35 năm 11 tháng = 552.204 đồng.
Sau khi ký hợp đồng thì tôi đã thanh toán đầy đủ số tiền 238.000.000 đồng cho Công ty Cổ phần Đại HY và Công ty đã bàn giao ki ốt cho bà T sử dụng từ khi ký hợp đồng đến nay.
Nay do Công ty cổ phần Đại HY bị thi hành án phát mại tài sản để trả nợ cho ngân hàng nên bà T yêu cầu Tòa án tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê ki ốt được ký ngày 15/7/2015 giữa Công ty Cổ phần Đại HY và bà T. Yêu cầu Công ty Cổ phần Đại HY trả lại cho bà T số tiền thuê còn lại tạm tính từ 26/3/2021 đến tháng 26/6/2051 là 30 năm.
Cụ thể:
(360 tháng) x (552.204 đ/tháng) = 198.793.440 đồng.
Yêu cầu Công ty bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn Thị T số tiền trên theo lãi suất ngân hàng là 0,75%/tháng nhân với thời gian từ khi thuê ki ốt đến ngày xét xử sơ thẩm nhưng tạm tính là 5 năm 8 tháng.
Cụ thể: 198.793.440 đồng x 0.75% x 05 năm 8 tháng = 101.384.654 đồng. Tổng cộng: 198.793.440 đồng + 101.384.654 đồng = 300.178.094đồng.
(Ba trăm triệu một trăm bẩy tám nghìn không trăm chín mươi tư đồng).
là:
Ngoài ra tiền thuế đất bà T đã đóng thuế thay cho Công Ty cổ phần Đại HY 7 năm x 1.340.000đ = 9.380.000 đồng.
Tiền thuế đất thu ngay sau khi ký hợp đồng thuê là 5.362.000 đồng. Tổng cộng: 9.380.000đ + 5.362.000đ = 14.742.000 đồng.
Tổng cộng số tiền Công ty cổ phần Đại HY pH trả cho bà T là: 314.920.094 đồng.
Đến ngày 20/4/2021 bà T có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu Tòa án buộc bị đơn pH trả cho bà T số tiền thuế bà T đã nộp thay cho bị đơn là 14.742.000 đồng.
Bị đơn là Công ty cổ phần Đại HY vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai trình bày:
Ngày 15/7/2015 bà Nguyễn Thị T (bên B) và Công ty Cổ phần Đại HY (Bên A) ký hợp đồng thuê ki ốt dịch vụ số với nội dung:
Bên A đồng ý cho Bên B thuê 01 ki ốt dịch vụ số 02 thuộc quyền quản lý sử dụng của bên A tại Quyết định số 2267/QĐ-UBND ngày 30/12/2008 của UBND tỉnh B tại địa chỉ: thôn Đồi Nên, xã Dĩnh Trì, thành phố B.
Ki ốt số 02 là ngôi nhà 02 tầng xây liền kề với các ki ốt khác có diện tích một sàn dài 12m x rộng 4,3 = 51,6m2.
Thời gian thuê: kể từ ngày ký hợp đồng 15/7/2015 đến ngày 26/6/2051 tính tròn là 35 năm 11 tháng.
Giá thuê toàn bộ thời gian thuê trên một ki ốt là 238.000.000 đồng. (không pH là 250.000.000đ).
Giá thuê 1 tháng/1 ki ốt là 238.000.000đ : 35 năm 11 tháng = 552.204 đồng.
Sau khi ký hợp đồng thì bà Nguyễn Thị T đã thanh toán đầy đủ số tiền 238.000.000 đồng cho Công ty Cổ phần Đại HY và Công ty đã bàn giao ki ốt cho bà Nguyễn Thị T sử dụng từ khi ký hợp đồng đến nay.
Nay do Công ty cổ phần Đại HY bị thi hành án phát mại tài sản để trả nợ cho ngân hàng nên bà Nguyễn Thị T yêu cầu Tòa án tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê ki ốt được ký ngày 15/7/2015 giữa Công ty Cổ phần Đại HY và bà Nguyễn Thị T. Yêu cầu Công ty Cổ phần Đại HY trả lại cho bà Nguyễn Thị T số tiền thuê còn lại tạm tính từ ngày 26/3/2021 đến tháng 26/6/2051 là 30 năm.
Cụ thể:
(360 tháng) x (552.204 đ/tháng) = 198.793.440 đồng.
Yêu cầu Công ty bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn Thị T số tiền trên theo lãi suất ngân hàng là 0,75%/tháng nhân với thời gian từ khi thuê ki ốt đến ngày xét xử sơ thẩm nhưng tạm tính là 5 năm 8 tháng.
Cụ thể: 198.793.440 đồng x 0,75% x 05 năm 8 tháng = 101.384.654 đồng. Tổng cộng: 198.793.440 đồng + 101.384.654 đồng = 300.178.094đồng.
(Ba trăm triệu một trăm bẩy tám nghìn không trăm chín mươi tư đồng).
Ngoài ra bà T còn yêu cầu Tòa án buộc Công ty pH trả cho bà T tiền thuế đất bà T đã đóng thuế thay cho Công Ty cổ phần Đại HY là:
07 năm x 1.340.000đ = 9.380.000 đồng.
Tiền thuế đất thu ngay sau khi ký hợp đồng thuê là 5.362.000 đồng. Tổng cộng: 9.380.000đ + 5.362.000đ = 14.742.000 đồng.
Tổng cộng số tiền Công ty cổ phần Đại HY pH trả cho bà T là: 314.920.094 đồng.
Quan điểm của Công ty cổ phần Đại HY là: Nay do Công ty cổ phần Đại HY gặp khó khăn không còn khả năng trả nợ nên đề nghị cho Công ty trả dần số tiền thuê còn lại sau khi đã trừ đi số tiền tương ứng với thời gian đã thuê. Còn đối với số tiền bồi thường thiệt hại thì Công ty không đồng ý trả.
Đối với số tiền thuê đất đã nộp mà bà T yêu cầu Tòa án buộc Công ty pH trả lại cho bà T thì Công ty không đồng ý trả với lý do trong hợp đồng thuê nhà đã thỏa thuận bên thuê nhà (bà T) có nghĩa vụ pH trả số tiền này.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Chi cục thi hành án dân sự thành phố B do ông Phạm Nguyễn K là đại diện theo ủy quyền vắng mặt tại phiên tòa nhưng có ý kiến trình bày:
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam- Chi nhánh Khu công nghiệp Đình Trám B (viết tắt là Ngân hàng) và Công ty Cổ phần Đại HY ký Hợp đồng thế chấp tài sản ngày 25/11/2010 và Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 2014.85/HĐTC ngày 29/8/2014. Tài sản thế chấp trong đó có 8 ki ốt gắn liền với diện tích 2.188,1m2 đất tại thửa đất (không số), tờ bản đồ (không số), địa chỉ thửa đất: Thôn Đồi Nên, xã Dĩnh Trì, thành phố B. Được UBND tỉnh B cấp Giấy CNQSDĐ số AP 095017 cấp ngày 27/02/2009.
Căn cứ Bản án số 20/2019/KDTM-ST ngày 11/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B và đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án. Chi cục thi hành án dân sự thành phố B đã ban hành quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án số 109/QĐ-CCTHADS ngày 12/6/2020 cho thi hành khoản buộc Công ty cổ phần Đại HY pH trả cho Ngân hàng số tiền 5.306.269.000 đồng và lãi suất chậm thi hành án.
Do Công ty cổ phần Đại HY không tự giác chấp hành nên Chi cục thi hành án dân sự thành phố B đã quyết định cưỡng chế thi hành và hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản với Công ty đấu giá hợp danh B Nam. Sau khi tổ chức bán đấu giá, ngày 04/12/2020 toàn bộ tài sản bán đấu giá đã được bán cho Công ty cổ phần tư và đầu tư xây dựng Đức Giang trong đó có ki ốt số 02.
Do Công ty cổ phần Đại HY không chịu bàn giao tài sản cho người trúng đấu giá nên ngày 10/3/2021, Chi cục thi hành án dân sự thành phố B tổ chức cưỡng chế và giao tài sản cho đơn bị trúng đấu giá. Các hộ gia đình cá nhân thuê 8 ki ốt đã bàn giao tài sản 8 ki ốt đã thuê của Công ty cổ phần Đại HY theo như yêu cầu của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B.
Nay do Công ty cổ phần Đại HY bị thi hành án phát mại tài sản để trả nợ cho ngân hàng nên nguyên đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê ki ốt và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Quan điểm của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B là đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, đảm bảo quyền lợi của người thuê ki ốt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và trình bày quan điểm giải quyết đối với vụ án:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và thực hiện đúng các quy định của bộ luật tố tụng dân sự về phiên toà sơ thẩm. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ quy định tại các Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Bị đơn thực hiện chưa đúng các quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 78 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Thời hạn giải quyết vụ án đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn bà T đối với bị đơn Công ty Cổ phần Đại HY.
Tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê ki ốt dịch vụ ký ngày 15/7/2017 giữa Công ty Cổ phần Đại HY với bà Nguyễn Thị T.
Buộc Công ty Cổ phần Đại HY phải trả cho bà Nguyễn Thị T số tiền tổng cộng là 302.429.015 đồng (Ba trăm linh hai triệu bốn trăm hai chín nghìn không trăm mười lăm đồng). Trong đó: Tiền thuê ki ốt còn lại là 200.450.052 đồng; tiền bồi thường thiệt hại là 101.978.963 đồng.
Về bồi thường thiệt hại: Do Công ty có lỗi dẫn tới tài sản bị phát mại và hợp đồng thuê ki ốt dịch vụ phải chấm dứt nên cần buộc Công ty phải chịu bồi thương thiệt hại trên số tiền phải trả lại nhân với thời gian đã thuê (từ ngày ký hợp đồng 15/7/2015 đến ngày phải bàn giao cho cơ quan thi hành án là ngày 10/3/2021) nhân với lãi suất do Ngân hàng nhà nước quy định tại thời điểm trả nợ là 0,75%/tháng, 9%/năm.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà T về việc yêu cầu Tòa án buộc bị đơn pH trả cho bà T số tiền thuế bà T đã nộp là 14.742.000 đồng.
Về án phí và chi phí tố tung: Công ty cổ phần Đại HY phải chịu án phí và chi phí tố tụng do yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về thủ tục tố tụng:
[1.1]. Nguyên đơn, Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xử vắng mặt nên Tòa án quyết định xét xử vắng mặt các đương sự theo như quy định tại Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết tranh chấp: Quan hệ tranh chấp giữa bà Nguyễn Thị T với Công ty cổ phần Đại HY là tranh chấp yêu cầu tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê ki ốt dịch vụ giữa bên cho thuê Công ty cổ phần Đại HY với bên thuê bà Nguyễn Thị T . Bị đơn có địa chỉ tại: thôn Đồi Nên, xã Dĩnh Trì, thành phố B, tỉnh B. Do vậy, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B theo quy định tại khoản 3 Điều 26; Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.3] Về thời hiệu khởi kiện: Theo quy định tại Điều 429 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về thời hiệu khởi kiện về hợp đồng: Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc pH biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Do vậy, tranh chấp này vẫn còn thời hiệu khởi kiện.
[2]. Về nội dung:
Ngày 15/7/2015 bà Nguyễn Thị T (bên thuê, bên B) và Công ty Cổ phần Đại HY, bên cho thuê, bên A ký hợp đồng thuê ki ốt dịch vụ với nội dung:
Bên A đồng ý cho Bên B thuê ki ốt dịch vụ số 02 thuộc quyền quản lý, sử dụng của bên A theo Quyết định số 2267/QĐ-UBND ngày 30/12/2008 của UBND tỉnh B tại địa chỉ: thôn Đồi Nên, xã Dĩnh Trì, thành phố B.
Ki ốt số 02 là ngôi nhà 02 tầng xây liền kề với các ki ốt khác có diện tích một sàn là dài 12m x rộng 4,3 = 51,6m2.
Thời gian thuê: Kể từ ngày ký hợp đồng 15/7/2015 đến ngày 26/6/2051.
Nay do Công ty cổ phần Đại HY bị thi hành án phát mại tài sản để trả nợ cho Ngân hàng nên bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê ki ốt được ký ngày 15/7/2015 giữa Công ty Cổ phần Đại HY và bà T. Yêu cầu Công ty Cổ phần Đại HY trả lại cho bà T số tiền thuê còn lại tạm tính từ 26/3/2021 đến tháng 26/6/2051 là 30 năm.
Cụ thể: (360 tháng) x (552.204 đ/tháng) = 198.793.440 đồng.
Yêu cầu Công ty bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn Thị T số tiền trên theo lãi suất ngân hàng là 0,75%/tháng nhân với thời gian từ khi thuê ki ốt đến ngày xét xử sơ thẩm nhưng tạm tính là 5 năm 8 tháng.
Cụ thể: 198.793.440 đồng x 0.75% x 05 năm 8 tháng = 101.384.654 đồng. Tổng cộng: 198.793.440 đồng + 101.384.654 đồng = 300.178.094đồng.
(Ba trăm triệu một trăm bẩy tám nghìn không trăm chín mươi tư đồng).
Bà T rút yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu Tòa án buộc bị đơn pH trả cho bà T số tiền thuế bà T đã nộp thay cho bị đơn là 14.742.000 đồng.
Công ty Cổ phần Đại HY chỉ đồng ý trả dần số tiền thuê còn lại sau khi đã trừ đi số tiền tương ứng với thời gian đã thuê. Còn đối với số tiền bồi thường thiệt hại thì Công ty không đồng ý trả.
Hội đồng xét xử xét thấy:
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam- Chi nhánh Khu công nghiệp Đình Trám B và Công ty Cổ phần Đại HY ký Hợp đồng tín dụng số 2502LAV 201401825 ngày 12 tháng 9 năm 2014. Hạn mức tín dụng (HMTD) được cấp: 5.800.000.000 đồng. Trong đó: Hạn mức cho vay: 5.800.000.000 đồng.
Tài sản bảo đảm cho khoản vay nêu trên trong đó có 1.563m2 nhà thương mại dịch vụ, dãy ki ốt thuộc Giấy CNQSD đất số AE 868 727 do UBND tỉnh B cấp ngày 26/6/2006 cho Công ty Cổ phần Đại HY, theo Hợp đồng thế chấp số: 2014.85/ HĐTC ngày 29/8/2014.
Sau khi thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng, ngày 15/7/2015 Công ty cổ phần đại HY cho bà T thuê ki ốt dịch vụ số 04.
Việc Công ty cổ phần Đại HY cho thuê tài sản đang thế chấp nhưng không thông báo cho bên thuê tài sản bà T biết về việc tài sản cho thuê đang được thế chấp tại Ngân hàng cũng như không được sự đồng ý bằng văn bản của Ngân hàng theo như quy định tại Điều 3 Hợp đồng thế chấp số: 2014.85/ HĐTC ngày 29/8/2014 quy định quyền của bên B (Công ty Cổ phần Đại HY): “Được cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp nếu được Bên A (Agribank Chi nhánh Khu công nghiệp Đình Trám B) chấp thuận bằng văn bản nhưng pH thông báo cho bên thuê, bên mượn tài sản biết về việc tài sản cho thuê, cho mượn đang được thế chấp, đồng thời pH thỏa thuận trong Hợp đồng cho thuê, cho mượn:“Nếu tài sản cho thuê, cho mượn bị xử lý để thu hồi nợ, bên thuê, bên mượn có trách nhiệm giao tài sản cho bên A và hợp đồng cho thuê, cho mượn sẽ chấm dứt (Kể cả trường hợp hợp đồng thuê tài sản chưa hết hiệu lực”.
Sau khi vay vốn ngân hàng, do không trả được gốc, lãi đến hạn nên Ngân hàng đã khởi kiện Công ty cổ phần Đại HY. Tòa án nhân dân thành phố B đã xét xử sơ thẩm và Tòa án nhân dân tỉnh B đã xét xử phúc thẩm buộc Công ty cổ phần Đại HY pH trả số tiền vay. Nếu không trả được sẽ phát mại tài sản thế chấp (trong đó có ki ốt số 02) để trả nợ cho ngân hàng. Do Công ty cổ phần Đại HY không tự giác chấp hành nên Chi cục thi hành án dân sự thành phố B đã quyết định cưỡng chế thi hành và hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản với Công ty đấu giá hợp danh B Nam. Sau khi tổ chức bán đấu giá, ngày 04/12/2020 toàn bộ tài sản bán đấu giá đã được bán cho Công ty cổ phần tư và đầu tư xây dựng Đức Giang (trong đó có ki ốt số 02).
Do Công ty cổ phần Đại HY không chịu bàn giao tài sản cho người trúng đấu giá nên ngày 10/3/2021, Chi cục thi hành án dân sự thành phố B tổ chức cưỡng chế và giao tài sản cho đơn bị trúng đấu giá. Các hộ gia đình cá nhân thuê 8 ki ốt đã bàn giao tài sản 8 ki ốt đã thuê của Công ty cổ phần Đại HY theo như yêu cầu của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B.
Nay do Công ty cổ phần Đại HY bị thi hành án phát mại tài sản để trả nợ cho Ngân hàng nên bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê ki ốt được ký ngày 15/7/2015 giữa Công ty Cổ phần Đại HY và bà T và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Lỗi hoàn toàn thuộc về Công ty cổ phần Đại HY. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T.
Về giá thuê ki ốt: Căn cứ vào hợp đồng thuê ki ốt được ký ngày 15/7/2015 giữa Công ty Cổ phần Đại HY và bà T thì giá thuê toàn bộ thời gian thuê trên một ki ốt là 238.000.000 đồng (không pH là 250.000.000đ) theo như yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Về bồi thường thiệt hại: Do Công ty cổ phần Đại HY có lỗi dẫn tới tài sản bị phát mại và hợp đồng thuê ki ốt dịch vụ pH chấm dứt nên cần buộc Công ty cổ phần Đại HY pH chịu bồi thương thiệt hại trên số tiền pH trả lại nhân với thời gian đã thuê (từ ngày ký hợp đồng 15/7/2015 đến ngày pH bàn giao cho cơ quan thi hành án là ngày 10/3/2021) nhân với lãi suất do Ngân hàng nhà nước quy định tại thời điểm trả nợ là 0,75%/tháng, 9%/năm. Cụ thể như sau:
Thời gian thuê: kể từ ngày ký hợp đồng 15/7/2015 đến ngày 26/6/2051 làm tròn là 35 năm 11 tháng.
Giá thuê toàn bộ thời gian thuê ki ốt là 238.000.000 đồng.
Giá thuê 1 tháng/1 ki ốt là 238.000.000đ : 35 năm 11 tháng = 552.204 đồng.
ngày.
Thời gian đã thuê từ ngày 15/7/2015 đến 10/3/2021 là 5 năm 7 tháng 25 Thời gian thuê còn lại của hợp đồng tính từ ngày 26/3/2021 đến 26/6/2051 là 30 năm 3 tháng.
Số tiền thuê còn lại Công ty pH trả lại cho bà T là:
(30 năm 3 tháng) x (552.204đ/tháng) = 200.450.052 đồng. Số tiền bồi thương thiệt hại pH trả cho bà T là:
200.450.052 đ x (9%/năm, 0,75%/tháng, 0,025%/ngày) x (05 năm 07 tháng 25 ngày) = 101.978.963 đồng.
Tổng cộng: 200.450.052 đồng + 101.978.963 đồng = 302.429.015 đồng (Ba trăm linh hai triệu bốn trăm hai chín nghìn không trăm mười lăm đồng).
[3]. Ngày 20/4/2021 bà T có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu Tòa án buộc bị đơn pH trả cho bà T số tiền thuế bà T đã nộp là 14.742.000 đồng. Bị đơn không có ý kiến gì về việc rút yêu cầu này nên Hội đồng xét xử cần đình chỉ yêu cầu này.
[4]. Về chi phí thẩm định tài sản quyết toán hết 3.000.000 đồng bà T đã tạm ứng số tiền này. Do yêu cầu khởi kiện của bà T được chấp nhận nên ông Công ty cổ phần Đại HY pH chịu số tiền này. Bà T được nhận lại số tiền này khi Công ty cổ phần Đại HY nộp.
[5]. Về án phí: Công ty cổ phần Đại HY pH chịu án phí về tuyên bố chấm dứt hợp đồng không có giá ngạch và án phí có giá ngạch về việc giải quyết hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng do yêu cầu của bà T được tòa án chấp nhận.
[6]. Đề nghị của đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố B là hoàn toàn phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 26, Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 156, Điều 157, Điều 158, Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 271 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Căn cứ Điều 419, khoản 5 Điều 422, Điều 472 Bộ Luật dân sự năm 2015. Khoản 9 Điều 6, điểm c khoản 2 Điều 131 Luật nhà ở.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T đối với bị đơn Công ty Cổ phần Đại HY.
Tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê ki ốt dịch vụ ký ngày 15/7/2017 giữa Công ty Cổ phần Đại HY với bà Nguyễn Thị T đối với ki ốt số 02 (gắn liền với diện tích 2.188,1m2 đất tại thửa đất (không số), tờ bản đồ (không số), địa chỉ thửa đất: Thôn Đồi Nên, xã Dĩnh Trì, thành phố B; Được UBND tỉnh B cấp Giấy CNQSDĐ số AP 095017 cấp ngày 27/02/2009 cho Công ty cổ phần Đại HY).
Buộc Công ty Cổ phần Đại HY pH trả cho bà Nguyễn Thị T số tiền tổng cộng là 302.429.015 đồng (Ba trăm linh hai triệu bốn trăm hai chín nghìn không trăm mười lăm đồng). Trong đó: Tiền thuê ki ốt còn lại là 200.450.052 đồng; tiền bồi thường thiệt hại là 101.978.963 đồng.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T về việc yêu cầu Tòa án buộc bị đơn phải trả cho bà T số tiền thuế bà T đã nộp là 14.742.000 đồng.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên pH thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn pH thi hành án là 10%/năm.
2. Về chi phí thẩm định tại chỗ tài sản: Buộc Công ty cổ phần Đại HY pH chịu 3.000.000 đồng chi phí thẩm định tại chỗ. Bà Nguyễn Thị T được nhận lại 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) khi Công ty cổ phần Đại HY nộp.
3. Về án phí: Công ty cổ phần Đại HY phải chịu 15.421.450 đồng (Mười lăm triệu bốn trăm hai mươi mốt nghìn bốn trăm năm mươi đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Trả lại cho bà Nguyễn Thị T số tiền tạm ứng án phí 8.251.000 đồng (Tám triệu hai trăm năm mươi mốt nghìn đồng) đồng đã nộp tại Biên lai số AA/2018/0001974 ngày 23/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B.
4. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên Tòa có quyền kháng cáo bản án kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về yêu cầu tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê ki ốt và bồi thường thiệt hại số 38/2021/DS-ST
Số hiệu: | 38/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hòa Bình - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 24/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về