TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 47/2021/DS-ST NGÀY 30/12/2021 VỀ YÊU CẦU THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TRẢ TIỀN
Ngày 30 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 111/2021/TLST-DS ngày 24 tháng 6 năm 2021 về việc “Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2021/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 54/2021/QĐTS-DS ngày 13 tháng 12 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị Bạch L, sinh năm 1963; nơi cư trú: Số 04 đường N, phường H, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kiều D, sinh năm 1992. Địa chỉ: Số ** đường T, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, có mặt.
- Bị đơn: Bà Hồ Thị V, sinh năm 1972; nơi cư trú: Tổ A Chơn Tâm 8, phường H, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện nguyên đơn bà Đỗ Thị Bạch L và đại diện theo ủy quyền bà Nguyễn Thị Kiều Duyên trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ttrình bày:
Bà L và bà V là hàng xóm láng giềng với nhau, nên hay tâm sự, chia sẽ và giúp đỡ nhau. Hơn nữa bà V là chủ biêu nhiều năm, có uy tín trong khu vực nên bà L có chơi biêu với bà V mấy chân biêu, cụ thể:
Khoảng năm 2019 (không nhớ rõ), bà L có chơi với bà V một chân biêu, đóng trong vòng 18 tháng, mỗi tháng đóng 3.000.000 đồng. Bà L đóng đầy đủ tiền cho bà V tuy nhiên đến thời điểm rút biêu thì bà V không có tiền để chung cho bà L. Số tiền bà V thiếu của Lan trong lần chơi này là 54.000.000 đồng. Đầu năm 2020, bà L có chơi với bà V một chân biêu, đóng trong vòng 13 tháng, mỗi tháng đóng 4.000.000 đồng. Bà L đã đóng đầy đủ số tiền chơi biêu cho bà V. Tuy nhiên đến thời điểm rút biêu thì bà V không có tiền để chung cho bà L. Số tiền bà V thiếu của tôi trong lần chơi này là 52.000.000 đồng. Tổng số tiền biêu bà V nợ bà L trong hai lần chơi là 106.000.000 đồng.
Ngoài ra, bà V nhiều lần mượn tiền bà L để chung biêu cho các người chơi khác, cả mượn để sử dụng buôn bán để tạo cho tôi sự tin tưởng bà V chủ động viết giấy tờ tay ghi nhận số tiền nợ và tiền nợ biêu vào ngày 26/10/2020, theo giấy nợ thì bà V có nợ bà L số tiền nhiều lần là 290.000.000 đồng và tổng số tiền biêu bà V nợ bà L trong hai lần chơi biêu trên là 106.000.000 đồng.
Đến thời gian này đã quá lâu, kể từ thời điểm nợ tiền, bà V vẫn chưa có ý định trả tiền cho bà L, bà L đã yêu cầu bà Vâ trả tiền nhiều lần. Nay bà L yêu cầu bà V trả lại số tiền là 402.494.400 đồng, trong đó số tiền nợ 396.000.000 đồng, tiền lãi tính đến ngày 29/3/2021 là 6.098.400 đồng. Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn chỉ yêu cầu bà V trả tiền nợ là 396.000.000đ, bà L không yêu cầu bà V phải trả tiền lãi.
* Bị đơn là bà Hồ Thị V trong quá trình giải quyết vụ án trình bày:
Năm 2017, bà V có mượn của bà L số tiền là 70.000.000 đồng, lãi suất là 10%/tháng. Mỗi tháng bà V trả là 7.000.000 đồng tiền lãi mỗi tháng. Đến năm 2018, bà V cầm biêu, bà L lấy tiền lãi một tháng là 7.000.000 đồng, mỗi tháng trừ vào bà L hoàn toàn lấy tiền lãi trừ vào tiền chơi biêu, không đưa tiền chung biêu cho bà V. Đến đầu năm 2020, bà V có mượn bà L thêm 30.000.000 đồng. Tổng số tiền là 100.000.000 đồng.
Từ năm 2018, bà V và bà L bắt đầu chơi biêu với nhau, bà V là người đứng ra cầm cái, bà V có lập sổ chơi biêu và người chơi biêu. Bà L tổ chức 3 dây biêu, bà L chơi với bà V ba dây biêu. Dây thứ nhất, bà L chơi với bà V 3.000.000 đồng/tháng từ tháng 6/2018 đến tháng 02/2020, dây này bà L chơi với bà V 2 chân biêu; bà L đã hốt hết chân biêu này được số tiền khoảng 50.000.000 đồng. Dây thứ hai, bà L chơi với bà V 3.000.000/01 tháng từ đầu năm 2019 đến khoảng thời gian nào bà V không rõ; dây này bà L chơi với Vân 5 chân hoặc 4 chân biêu (bà V không nhớ rõ); bà L đã hốt 03 chân biêu hoặc 04 chân còn lại bà V thiếu 01 chân biêu với số tiền là 54.000.000 đồng. Dây thứ ba, bà L chơi với bà V 4.000.000 đồng/ 01 tháng từ tháng 01/2020 đến cuối năm 2020, dây này bà L chơi với bà V khoảng 02 chân biêu (bà V không nhớ rõ); bà L hốt khoảng 01 chân biêu, còn lại 01 chân biêu với số tiền là 52.000.000 đồng.
Đến cuối năm 2020, bà L có gọi bà V lên nhà viết Giấy mượn tiền để nhận nợ làm tin, nên bà V viết Giấy mượn nợ trên. Bà V không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà L. Bà V chỉ đồng ý trả 100.000.000 đồng mà tôi mượn. Một tháng tôi trả 1.500.000 đồng, bà V không đồng ý trả lãi cho bà L.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về phạm vi, yêu cầu khởi kiện: Theo đơn khởi kiện nguyên đơn bà Đỗ Thị Bạch L khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Hồ Thị V trả số tiền nợ 396.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh. Tuy nhiên tại phiên tòa đại diện nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ 396.000.000 đồng. Xét yêu cầu thay đổi nội dung khởi kiện của nguyên đơn không vượt quá phạm vi, yêu cầu khởi kiện ban đầu. Căn cứ quy định tại Điều 5 và Điều 244 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu thay đổi nội dung khởi kiện của nguyên đơn.
[1.2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụh án: Tại đơn khởi kiện, bà Đỗ Thị Bạch L yêu cầu bà Hồ Thị V phải trả 396.000.000 đồng, trong đó có số tiền nợ biêu, tiền vay. Theo giấy mượn tiền ngày 26/10/2020, Vì vậy Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật phải giải quyết trong vụ án này là “Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền”. Bà Hồ Thị V hiện đang cư trú tại: Số 41 Chơn Tâm 8, phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng là phù hợp với quy định tại Điều 26, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.3] Về sự vắng mặt của bị đơn: Tại phiên toà lần thứ nhất ngày 13.12.2021 cũng như phiên toà hôm nay. Toà án triệu tập và tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên toà đối với bị đơn bà Hồ Thị V nhưng bà V vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn bà Hồ Thị V.
[2] Về nội dung vụ án: Bà L và bà V là hàng xóm, quen biết với nhau, nên từ năm 2018 đến năm 2020 bà L, bà V cùng chơi biêu và bà V có vay tiền của bà L nhiều lần. Đến ngày 26/10/2020, bà L và bà V tính toán, thống nhất lại toàn bộ số tiền nợ và tiền chơi biêu. Theo đó thì bà V còn nợ bà L tổng số tiền là 396.000.000 đồng. Trong đó tiền nợ là 290.000.000 đồng, tiền chơi biêu 106.000.000 đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án bà V cho rằng chỉ vay của bà L hai lần với tổng số tiền là 100.000đ, bà V trả tiền lãi cho bà L 7.000.000đ/1 tháng. Đồng thời bà L có chơi biêu với bà V nhưng bà L không nộp tiền biêu mà lấy tiền lãi của số tiền vay nêu trên để nộp biêu, nên số tiền nợ mới lên đến tổng cộng 396.000.000 đồng. Vì vậy bà V chỉ đồng ý trả cho bà L số tiền vay 100.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ vào “Giấy mượn tiền” ngày 26/10/2020 thì bà V có nợ của bà L số tiền 390.000.000 đồng, trong đó nợ tiền vay là 296.000.000 đồng, tiền chơi biêu là 106.000.0000 đồng. Tại thời điểm bà V viết giấy mượn tiền có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, không bị ép buộc, việc giao kết không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định tại Điều 117, Điều 119 và Điều 385 Bộ luật Dân sự. Hội đồng xét xử xét thấy: Tại Giấy mượn tiền ngày 26/10/2020 không thể hiện ngày, tháng, năm trả tiền nhưng trong quá trình giải quyết vụ án thể hiện bà L đã nhiều lần yêu cầu bà V trả tiền nhưng bà V không trả. Việc bà V khai chỉ nợ của bà L số tiền 100.000.000đ, đồng thời bà V cho rằng vay tiền của bà V với lãi suất 10%/01 tháng nhưng không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho lời khai của mình là có căn cứ nên không được chấp nhận. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 274 và Điều 280 Bộ luật Dân sự chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đỗ Thị Bạch L đối với bị đơn bà Hồ Thị V. Buộc bà Hồ Thị V phải có nghĩa vụ trả nợ cho bà Đỗ Thị Bạch L số tiền 396.000.000 đồng. Đối với tiền lãi phát sinh do tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không yêu cầu trả tiền lãi, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đỗ Thị Bạch L được chấp nhận nên bị đơn bà Hồ Thị V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 19.800.000 đồng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điều 5, 26, 35, 39, 227, 235, 244 và Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự.
Áp dụng: Điều 117, 119, 274, 280 và Điều 385 Bộ luật dân sự;
Áp dụng: Các Điều 13, 15 và khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bộ luật Tố tụng dân sự.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị Bạch L đối với bà Hồ Thị V về việc “Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền”.
Xử: Buộc bà Hồ Thị V phải trả cho bà Đỗ Thị Bạch L Sa số tiền 396.000.000 đồng (Ba trăm chín mươi sáu triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.
2. Án phí dân sự sơ thẩm là 19.800.000 đồng (Mười chín triệu tám trăm nghìn đồng) bà Hồ Thị V phải chịu.
Hoàn trả cho bà Đỗ Thị Bạch L số tiền tạm ứng án phí 10.049.888đ (Mười triệu không trăm bốn mươi chín nghìn tám trăm tám mươi tám đồng) đã nộp tại biên lai thu số 0009657 ngày 22 tháng 6 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu.
Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án niêm yết bản án tại nơi cư trú.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền số 47/2021/DS-ST
Số hiệu: | 47/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/12/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về