Bản án về yêu cầu thanh toán tiền lương số 2185/2024/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 2185/2024/LĐ-ST NGÀY 30/05/2024 VỀ YÊU CẦU THANH TOÁN TIỀN LƯƠNG

Ngày 30 tháng 5 năm 2024, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa sơ thẩm, xét xử công khai vụ án lao động thụ lý số 124/2023/TLST-LĐ ngày 12 tháng 10 năm 2023, về việc “Yêu cầu thanh toán tiền lương, BHXH, BHYT, BHTN”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2315/2024/QĐXXST-LĐ ngày 19/4/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 2958/2024/QĐST-LĐ ngày 09/5/2024, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Phan Hoàng A, sinh năm: 1986;

Địa chỉ: 130/2/2 đường B, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Công ty Cổ phần T Địa chỉ: B Khu B, đường T, phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, Bị đơn vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện ngày 06/7/2023, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn - ông Phan Hoàng A trình bày:

Ngày 02/01/2021, ông Phan Hoàng A và Công ty Cổ phần T1 đông HPP (sau đây gọi tắt là Công ty T) ký kết Hợp đồng lao động số 57C/HĐLĐ - AĐHPP với nội dung như sau:

- Loại hợp đồng lao động: Có thời hạn 12 tháng (từ ngày 02/01/2021 đến ngày 31/12/2021;

- Chức danh chuyên môn: Chuyên viên cầu đường.

- Mức lương chính: 16.000.000 đồng.

- Hình thức trả lương: Tiền mặt hoặc chuyển khoản qua ngân hàng.

Thời gian làm việc tại công ty từ 02/01/2021 đến 18/3/2023. Sau đó ông A có đơn xin chấm dứt hợp đồng lao động, đến ngày 18/3/2023, Công ty T có quyết định v/v chấm dứt hợp đồng lao động số 08/2023/QĐ-AĐHPP đối với ông Phan Hoàng A, chấm dứt hợp đồng lao động từ ngày 23/3/2023.

Trong quá trình làm việc công ty T thường xuyên chậm thanh toán tiền lương theo Bảng xác nhận công nợ lương ngày 03/4/2023 được ký giữa người lao động - ông Phan Hoàng A và người sử dụng lao động Công ty T, Tổng cộng số tiền 88.987.485 đồng cụ thể như sau:

- Tháng 7/2022 nợ lương chưa thanh toán là 9.119.247 đồng - Tháng 8/2022 nợ lương chưa thanh toán là 8.559.737 đồng - Tháng 9/2022 nợ lương chưa thanh toán là 14.778.421 đồng - Tháng 10/2022 nợ lương chưa thanh toán là 15.218.318 đồng - Tháng 11/2022 nợ lương chưa thanh toán là 15.062.110 đồng - Tháng 12/2022 nợ lương chưa thanh toán là 530.559 đồng - Tháng 01/2023 nợ lương chưa thanh toán là 6.907.449 đồng - Tháng 02/2023 nợ lương chưa thanh toán là 14.481.391 đồng - Tháng 03/2023 nợ lương chưa thanh toán là 3.391.250 đồng - Chi phí đi công tác chưa thanh toán là 939.000 đồng Trong thời gian làm việc ở công ty, Công ty T đã không đóng Bảo hiểm xã hội (BHXH), Bảo hiểm y tế (BHYT), Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) …. Mặc dù các loại bảo hiểm nay công ty đã trừ vào lương hàng tháng của ông A.

Do đó, ngày 06/7/2023, Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức xem xét giải quyết như sau:

- Buộc Công ty Cổ phần T1 đóng HPP thanh toán đầy đủ tiền lương còn nợ từ tháng 07/2022 đến tháng 23/3/2023 là: 88.987.485 đồng cho nguyên đơn + Buộc Công ty Cổ phần T1 đóng HPP thanh toán các khoản tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (BHXH) theo quy định pháp luật.

Bị đơn Công ty Cổ phần T1 đóng HPP mặc dù đã được tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vắng mặt, bị đơn cũng không có ý kiến, bản tự khai đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt - Bị đơn vắng mặt không có ý kiến.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình thụ lý sơ thẩm và xét xử. Về phía các đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền của mình theo Bộ luật tố Tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, thời hạn xét xử đã quá so với thời gian quy định, kiến nghị rút kinh nghiệm.

+ Về nội dung: Đề nghị HDXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Hoàng A yêu cầu Công ty Cổ phần T1 đóng HPP phải thanh toán tiền lương còn thiếu theo thỏa thuận giữa hai bên và các khoản bảo hiểm trong thời gian làm việc. Các đương sự phải đóng án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án:

Quan hệ pháp luật tranh chấp: Ông Phan Hoàng A và Công ty Cổ phần T1 đóng HPP có ký Hợp đồng lao động số 57C/HĐLD - AĐHPP ngày 01/02/2021 với nội dung thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động có quy định về trả tiền công, tiền lương, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động nên đây là tranh chấp quan hệ lao động theo quy định tại Điều 13 của Bộ luật Lao động năm 2019.

Thẩm quyền giải quyết: Vụ việc ông Phan Hoàng A khởi kiện tranh chấp đòi tiền lương phát sinh từ hợp đồng lao động đối với Công ty Cổ phần T1 đóng HPP có nội dung phù hợp pháp luật, còn trong thời hiệu khởi kiện và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn là Công ty Cổ phần T1 đóng HPP có trụ sở hoạt động chính tại thành phố T nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, phù hợp với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 36; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về tố tụng và phạm vi giải quyết vụ án:

- Vụ án thuộc trường hợp phải có đại diện Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về thủ tục tiền tố tụng: Người lao động yêu cầu đòi lại số tiền lương nên Phòng Lao động và Thương binh xã hội thành phố T đã tiến hành thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động tại cơ sở 02 lần nhưng không tiến hành hòa giải được. Do đó, lập biên bản hòa giải không thành theo quy định tại khoản 4 Điều 188 Bộ luật Lao động 2019. Căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 32 Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 6 Điều 188 Bộ luật Lao động, người lao động khởi kiện là phù hợp.

- Về thủ tục tố tụng: Bị đơn - Công ty Cổ phần T1 đông HPP thì doanh nghiệp có địa chỉ trụ sở hoạt động chính tại: B Khu B, đường T, phường A, Thành phố T. Do đó, Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng cho Công ty theo quy định.

Việc thông báo thụ lý, triệu tập người tham gia tố tụng; tống đạt văn bản tố tụng để thông báo phiên hợp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như quá trình tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa đã được Tòa án thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quá trình tham gia tố tụng, các đương sự đã được đảm bảo thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình khi tham gia vụ án theo quy định tại các Điều 70, 71, 72, 73 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về sự vắng mặt của đương sự:

Bị đơn Công ty Cổ phần T1 đông HPP mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn:

[3.1] Về quan hệ lao động:

Xét các tài liệu chứng cứ gồm: Hợp đồng lao động số 57C/HĐLĐ - AĐHPP ngày 01/02/2021 được ký kết giữa Công ty Cổ phần T1 đông HPP với ông Phan Hoàng A; Quyết định v/v điều chỉnh mức lương CBNV số 31/2022/QĐ-AĐHPP ngày 01/4/2022 và Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 08/2023/QĐ- AĐHPP ngày 18/3/2023 có cơ sở xác định đây là hợp đồng lao động có hình thức, nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, các chủ thể tự nguyện ký kết là giao dịch hợp pháp nên Hợp đồng lao động có giá trị pháp lý ràng buộc quyền, nghĩa vụ giữa các bên. Thời hạn hợp đồng lao động được xác định là 01 năm, từ ngày 01/02/2021 đến ngày 31/12/2021. Nhưng ông Phan Hoàng A vẫn tiếp tục làm việc và có Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 08/2023/QĐ-AĐHPP ngày 18/3/2023 thì căn cứ điểm c Khoản 2 Điều 20 Bộ luật Lao động thì đây là Hợp đồng không xác định thời hạn. Và thời gian ông A làm việc tại Công ty T từ 01/02/2021 đến 23/3/2023 với mức lương là 18.000.000 đồng/tháng (theo Quyết định v/v điều chỉnh mức lương CBNV số 31/2022/QĐ-ABHPP ngày 01/4/2022). Do Công ty T thanh toán tiền lương không đầy đủ nên phát sinh tranh chấp hợp đồng lao động.

[3.2] Xét yêu cầu đòi nợ lương của nguyên đơn:

Căn cứ vào Bảng xác nhận công nợ ngày 03/4/2023 giữa Công ty Cổ phần T1 đóng HPP với ông Phan Hoàng A có cơ sở xác định Công ty còn nợ lương chưa thanh toán cho ông A từ tháng 07,08,09,10,11,12/2022. Tháng 01,02/2023 và 01/03/2023 đến tháng 23/3/2023 là 88.987.485 đồng. Xét thấy số nợ lương này là xác thực, phù hợp nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu đòi nợ lương của nguyên đơn.

[3.3] Về yêu cầu đóng BHXH từ tháng 5/2021 đến tháng 3/2023: Căn cứ theo Bản ghi quá trình đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp của ông Phan Hoàng A (Mã số BHXH: 0109144775) do cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố T cung cấp ngày 09/01/2024, thể hiện:

Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm thất nghiệp, Bảo hiểm y tế... đã đóng đến hết tháng 04/2021, còn nợ bảo hiểm xã hội từ tháng 05/2021 đến nay;

Theo quy định tại khoản 2 Điều 21; khoản 2 Điều 89 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động, có nội dung: “Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều 86 và hằng tháng trích từ tiền lương của người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật này để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội” và “Phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội trả trợ cấp bảo hiểm xã hội cho người lao động... trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động, xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc theo quy định của pháp luật”. Và khoản 1 Điều 44 Luật Việc làm năm 2013 quy định về tham gia bảo hiểm thất nghiệp: “Người sử dụng lao động phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động tại tổ chức bảo hiểm xã hội trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc có hiệu lực”. Như vậy, về trách nhiệm của người sử dụng lao động là phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định và hàng tháng trích từ tiền lương, tiền công của người lao động để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội.

Như vậy, từ các căn cứ trên, Công ty T đã có lỗi trong việc không thực hiện đóng bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm nên xét thấy ông Phan Hoàng A yêu cầu Công ty T phải đóng các khoản bảo hiểm xã hội từ tháng 5/2021 đến tháng 3/2023 là có cơ sở và phù hợp quy định pháp luật nên xét chấp nhận.

Sau khi Công ty T thi hành án xong (nộp đủ các khoản bảo hiểm xã hội cho ông Phan Hoàng A cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh có trách nhiệm chi thanh toán các khoản bảo hiểm cho ông Phan Hoàng A theo quy định pháp luật.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Công ty Cổ phần T phải chịu án phí lao động sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án

[5]. Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức là có cơ sở nên chấp nhận. Về thời hạn giải quyết vụ án bị kéo dài do trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử ghi nhận và rút kinh nghiệm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 20; khoản 2 Điều 21; khoản 1 Điều 32; điểm c khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 36; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91; Điều 95; Điều 96; Điều 99; Điều 101; Khoản 2 Điều 244; Điều 316; Điều 317; Điều 318; Điều 320; Điều 321 và Điều 322 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 1; Điều 20; Điều 95, Điều 98; khoản 4, 6 Điều 188 Bộ luật Lao động năm 2019;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 21 và khoản 2 Điều 89 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; khoản 1 Điều 44 Luật Việc làm năm 2013; khoản 1 Điều 15 Luật Bảo hiểm y tế (sửa đổi, bổ sung năm 2014);

Căn cứ vào Điều 2; Điều 6; Điều 7; Điều 9 và Điều 30 Luật thi hành án dân sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

1.1. Buộc Công ty Cổ phần T1 đóng HPP có trách nhiệm thanh toán tiền lương, phụ cấp lương cho ông Phan Hoàng A là 88.987.485 đồng (tám mươi tám triệu chín trăm tám mươi bảy ngàn bốn trăm tám mươi lâm đồng). Thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

1.2. Buộc Công ty Cổ phần T HPP có trách nhiệm đóng số nợ bảo hiểm xã hội từ tháng hội từ tháng 5/2021 đến tháng 3/2023 và chốt số BHXH cho ông Phan Hoàng A theo luật định;

Các bên thi hành án tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Ông Phan Hoàng A không phải chịu tiền án phí lao động sơ thẩm.

- Công ty Cổ phần T1 đóng HPP phải chịu án phí lao động sơ thẩm là 2.669.625 đồng (hai triệu sáu trăm sáu mươi chín ngàn sáu trăm hai mươi lăm đồng), nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về yêu cầu thanh toán tiền lương số 2185/2024/LĐ-ST

Số hiệu:2185/2024/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 30/05/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;