Bản án về yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy Quyết định trả lời khiếu nại số 843/2022/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BN ÁN 843/2022/HC-PT NGÀY 11/10/2022 VỀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, HỦY QUYẾT ĐỊNH TRẢ LỜI KHIẾU NẠI

Ngày 11 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số:

359/2020/TLPT-HC ngày 30 tháng 6 năm 2020 về việc “Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy quyết định trả lời khiếu nại”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số 26/2019/HC-ST ngày 20 tháng 12 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1945/2022/QĐ-PT ngày 23 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Bà Lý Thị Ngọc Th, sinh năm 1962. (có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: tổ 7, khóm M, phường V, thành phố Ch, tỉnh An Giang.

- Người bị kiện: y ban nhân dân thành phố Ch, tỉnh An Giang. (có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Phường Ch1, thành phố Ch, tỉnh An Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/. Ông Lê Văn L, sinh năm 1962. (vắng mặt) 2/. Bà Lê Thị D, sinh năm 1963. (vắng mặt) 3/. Bà Lê Thị L, sinh năm 1986. (vắng mặt) 4/. Bà Lê Thị Mỹ H, sinh năm 1990. (vắng mặt) 5/. Ông Lê Nhật Q, sinh năm 1998. (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Tổ 7, khóm M, phường V, thành phố Ch, tỉnh An Giang.

- Người kháng cáo: Người khởi kiện bà Lý Thị Ngọc Th.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 21 tháng 6 năm 2019 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, người khởi kiện bà Lý Thị Ngọc Th trình bày:

Từ trước 30/4/1975, tại khu vực tổ 7, đường VB, khóm M, phường V, thành phố Ch, tỉnh An Giang đã có lối đi chung diện tích ngang 02 mét, dài 30 mét và nguồn gốc đất này là của bà Võ Thị Q (là ông, bà của bà Th) để lại.

Ông Lê Văn L là người sử dụng đất liền kề, nên đăng ký kê khai và được Ủy ban nhân dân thành phố Ch (viết tắt là UBND) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là GCNQSDĐ) bao chiếm luôn lối đi chung, từ đó làm ảnh hưởng cho việc đi lại của gia đình bà.

Ngày 02/6/2018, bà Th khiếu nại lần đầu yêu cầu UBND thành phố Ch thu hồi GCNQSDĐ đã cấp cho ông L, đến ngày 12/12/2018 Ủy ban nhân dân thành phố Ch trả lời bằng văn bản số 3673 với nội dung không chấp nhận yêu cầu thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03063QSDĐ/cE ngày 05/9/2000 của UBND thành phố Ch cấp cho ông Lê Văn L.

Việc Ủy ban nhân dân thành phố Ch cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn L là trái pháp luật về trình tự, thủ tục và nội dung và Quyết định trả lời khiếu nại (Công văn trả lời đơn số 3673) của Ủy ban nhân dân thành phố Ch cũng trái pháp luật về trình tự thủ tục, nên bà Th khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03063QSDĐ/cE ngày 05/9/2000 của UBND thành phố Ch cấp cho ông Lê Văn L và Quyết định trả lời khiếu nại (Công văn trả lời đơn số 3673/UBND-NC ngày 14/12/2018) của Ủy ban nhân dân thành phố Ch.

Người bị kiện Ủy ban nhân dân thành phố Ch có Đơn đề nghị được vắng mặt trong suốt các thủ tục tố tụng hành chính tại Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, nhưng tại Văn bản số 2697/UBND-NC ngày 20 tháng 8 năm 2019 có nội dung:

- Đối với yêu cầu của bà Lý Thị Ngọc Th về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03063/cE ngày 05/9/2000 cấp cho hộ ông Lê Văn L là không có cơ sở;

- Đối với yêu cầu của bà Lý Thị Ngọc Th về việc hủy Công văn số 3673/UBND-NC ngày 14/12/2018 của Ủy ban nhân dân thành phố Ch là không có cơ sở;

- Ủy ban nhân dân thành phố Ch cung cấp cho Tòa án nhân dân tỉnh An Giang hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03063/cE ngày 05/9/2000 cho ông Lê Văn L (bản pho tô) và Công văn số 3673/UBND-NC ngày 14/12/2018 của Ủy ban nhân dân thành phố Ch (bản pho tô).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn L , bà Lê Thị D, bà Lê Thị L, bà Lê Thị Mỹ H và ông Lê Nhật Q trình bày: Vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và cũng không có ý kiến.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 26/2019/HC-ST ngày 20 tháng 12 năm 2019, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đã quyết định:

Căn cứ vào các Điều 32, 115, 116, 158, 193, 194, 204, 206, 348 của Luật Tố tụng Hành chính năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

+ Bác yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị Ngọc Th đối với yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0363 QSDĐ/cE ngày 05/9/2000 do Ủy ban nhân dân thành phố Ch cấp cho ông Lê Văn L.

+ Bác yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị Ngọc Th đối với yêu cầu hủy Quyết định trả lời khiếu nại (Công văn số 3673/UBND-NC, ngày 14/12/2018) của Ủy ban nhân dân thành phố Ch.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 03/01/2020, người khởi kiện bà Lý Thị Ngọc Th có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Lý Thị Ngọc Th có đơn xin xét xử vắng mặt và trình bày vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Th.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về việc chấp hành pháp luật: Hội đồng xét xử phúc thẩm và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của Luật tố tụng hành chính.

- Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Đơn kháng cáo của bà Lý Thị Ngọc Th làm trong thời hạn luật định, hợp lệ nên được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện và người bị kiện vắng mặt, có văn bản xin xét xử vắng mặt; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 225 Luật tố tụng hành chính tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự trong vụ án.

[2] Về nội dung:

Bà Th khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03063QSDĐ/cE ngày 05/9/2000 của UBND thành phố Ch cấp cho ông Lê Văn L, hủy Công văn trả lời đơn số 3673/UBND-NC ngày 14/12/2018 của UBND thành phố Ch vì cho rằng các văn bản trên được ban hành không đúng quy định pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy, - Diện tích 65,7m2 đất tại khóm M, phường V, thành phố Ch là của cha mẹ ông L cho và ông Lê Văn L đã sử dụng ổn định. Ngày 22/11/1999 ông Lê Văn L làm đơn đăng ký quyền sử dụng đất có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã V (nay là phường V), có Biên bản xác định ranh mốc, mốc giới khu đất ngày 20/10/1999 được các chủ sử dụng đất kế cận cam kết ranh đất không tranh chấp và Hồ sơ kỹ thuật khu đất ngày 10/4/2000. Ngày 05/9/2000, Ủy ban nhân dân thị xã Ch (nay là thành phố Ch cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0363 QSDĐ/cE cho hộ ông Lê Văn L thuộc thửa đất số 31, tờ bản đồ số 39, diện tích 65,7m2. Ngày 08/7/2010 các thành viên trong hộ gia đình ông L lập văn bản thỏa thuận phần đất trên là tài sản riêng của ông L (văn bản có chứng thực của UBND phường V). Trên cơ sở đó tại trang 4 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ ông Lê Văn L được đính chính là “Ông Lê Văn L” bỏ chữ “Hộ”.

- Phần đất của bà Lý Thị Ngọc Th được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03057QSDĐ/cE do Ủy ban nhân dân thị xã Ch (nay là thành phố Ch) cấp ngày 05/9/2000 cho hộ ông Lê Văn K (chồng bà Th) không thể hiện lối đi chung, mà phải đi nhờ qua 03 thửa đất được cấp giấy chứng nhận, lần lượt: Cấp cho hộ Hà Văn T và bà Lê Thị Ph (Giấy chứng nhận QSDĐ số 03130QSDĐ/cE do UBND thị xã Ch cấp ngày 05/9/2000); cấp cho hộ ông Lê Văn L (Giấy chứng nhận QSDĐ số 03063QSDĐ/cE do UBND thị xã Ch cấp ngày 05/9/2000); cấp cho hộ Nguyễn Thị T (Giấy chứng nhận QSDĐ số 03123QSDĐ/cE do UBND thị xã Ch cấp ngày 05/9/2000, chuyển nhượng cho ông Trần Hữu Th và bà Tăng Thu V ngày 06/8/2007). Sơ đồ hiện trạng khu đất kèm theo bản thuyết minh do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố Ch lập ngày 04/01/2016 thì không thể hiện phần đất lối đi chung.

- Năm 2017 bà Th khởi kiện ông L về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. Tại Bản án 47/2017/DSST ngày 10/10/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Ch tuyên buộc ông Lê Văn L có trách nhiệm trả phần đất lấn chiếm và cả phần lối đi chung là 12,3m2, giới hạn các điểm 7,8,c,d (theo bản trích đo hiện trạng ngày 04/01/2016). Tuy nhiên, diện tích đất 12,3m2, giới hạn các điểm 7,8,c,d (theo bản trích đo hiện trạng ngày 04/01/2016) là diện tích ông L sử dụng phía sau nhà thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03057/cE do ông Lê Văn K (chồng bà Th) đứng tên, phần diện tích này ông L đã tháo dỡ nhà trả cho bà Th.

Hi đồng xét thấy UBND thành phố Ch cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông L là đúng quy định pháp luật. Bà Th khiếu nại yêu cầu đề nghị thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông L là không có cơ sở chấp nhận, nên văn bản 3673/UBND-NC ngày 14/12/2018 của UBND thành phố Ch có nội dung không chấp nhận khiếu nại của bà Th là có căn cứ.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà Lý Thị Ngọc Th; cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà Lý Thị Ngọc Th phải chịu án phí hành chính phúc thẩm. Tuy nhiên, bà Th là người cao tuổi nên được miễn theo quy định tại Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, giữ quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, giữ quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Không chấp nhận kháng cáo của bà Lý Thị Ngọc Th. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 26/2019/HC-ST ngày 20/12/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang.

Tuyên xử:

+ Bác yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị Ngọc Th đối với yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0363 QSDĐ/cE ngày 05/9/2000 do Ủy ban nhân dân thành phố Ch cấp cho ông Lê Văn L.

+ Bác yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị Ngọc Th đối với yêu cầu hủy Quyết định trả lời khiếu nại (Công văn số 3673/UBND-NC, ngày 14/12/2018) của Ủy ban nhân dân thành phố Ch.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Án phí hành chính phúc thẩm: Bà Lý Thị Ngọc Th được miễn. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

489
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy Quyết định trả lời khiếu nại số 843/2022/HC-PT

Số hiệu:843/2022/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 11/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;