Bản án về xin ly hôn số 23/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC NINH – TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 23/2022/HNGĐ-ST NGÀY 03/06/2022 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 03 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 323/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2021, về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2022/QĐXX-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Mai Thị Thu H - sinh năm: 2000 (có đơn xin vắng)

Địa chỉ: Thôn 3, xã ĐR, huyện ĐL, tỉnh Đăk Nông.

Bị đơn: Anh Ngô Văn P – sinh năm: 1997 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp 8, xã LĐ, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn chị Mai Thị Thu H trình bày: Chị H và anh Ngô Văn P tự nguyện chung sống với nhau năm 2019, có đăng ký kết hôn tại UBND xã LĐ, huyện Lộc Ninh. Vợ chồng sống đến khoảng tháng 4 năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm và sống ly thân từ đó đến nay. Nay chị H xác định không còn tình cảm với anh P nên xin ly hôn.

Về con chung: Có 01 con tên Ngô Gia K, sinh ngày 10/4/2020. Khi ly hôn, chị H nuôi con không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có nên chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ: Chị H và anh P không nợ ai và cũng không ai nợ lại * Bị đơn anh Ngô Văn P vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án. Anh P có HKTT ở ấp 8, xã LĐ, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước. Tòa án tiến hành tống đạt các thủ tục, tuy nhiên anh P không đến Tòa án để cung cấp lời khai, chứng cứ.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Việc chấp hành pháp luật tố tụng: Tòa án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền. Xác định đúng quan hệ tranh chấp, thực hiện thủ tục cấp tống đạt các văn bản tố tụng, thu thập chứng cứ, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, chị H và anh P vắng mặt, tuy nhiên chị H có đơn xin xét xử vắng mặt, còn anh P Tòa án đã thực hiện các thủ tục tống đạt theo quy định nên đề nghị xét xử vắng mặt.

- Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Mai Thị Thu H.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Mai Thị Thu H được ly hôn với anh Ngô Văn P.

Về con chung: Chị H nuôi con tên Ngô Gia K, sinh ngày: 10/4/2020, chị H không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Về tài sản chung và nợ: Không có nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Chị Mai Thị Thu H có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh giải quyết ly hôn với anh Ngô Văn P nên vụ án được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh P cư trú tại xã LĐ, huyện Lộc Ninh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh được quy định tại khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa chị Mai Thị Thu H và anh Ngô Văn P vắng mặt, tuy nhiên chị H có đơn xin xét xử vắng mặt, còn anh P Tòa án đã thực hiện các thủ tục tống đạt theo quy định. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân:

Chị Mai Thị Thu H và anh Ngô Văn P tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại UBND xã LĐ, huyện Lộc Ninh vào năm 2019, vì vậy hôn nhân giữa chị H và anh P là hợp pháp. Quá trình giải quyết vụ án anh P vắng mặt. Tòa án tiến hành tống đạt các thủ tục theo quy định pháp luật nhưng anh P không có văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và không có mặt tại tòa, không thực hiện quyền lợi của mình, nên Hội đồng xét xử căn cứ lời khai của chị H và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn giao nộp cho Tòa án, các tài liệu chứng cứ do Tòa án thu thập được để xem xét.

Hội đồng xét xử xét thấy thời gian chung sống giữa chị H và anh P rất ngắn và phát sinh mâu thuẫn, theo chị H do bất đồng quan điểm, không có sự chia sẽ. Thời gian sống ly thân từ tháng 4/2020 đến nay nhưng không hàn gắn tình cảm được; chị H xác định không còn tình cảm với anh P, không đồng ý trở lại sống chung nên vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh P đã trầm trọng, cuộc sống không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được; Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử quyết định cho chị H được ly hôn với anh P.

Về con chung: Có 01 con tên Ngô Gia K, sinh ngày: 10/4/2020. Khi ly hôn chị H yêu cầu được nuôi con. Xét thấy cháu Khiêm còn nhỏ, dưới 36 tháng tuổi nên cần giao cho chị H nuôi. Chị H không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không giải quyết.

[3]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp nhận định của Tòa án nên chấp nhận.

[4]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy, chị H phải chịu số tiền án phí Hôn nhân sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên;

Căn cứ:

QUYẾT ĐỊNH

- Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình;

- Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 và khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Mai Thị Thu H được ly hôn với anh Ngô Văn P.

2. Về con chung: Chị H nuôi con tên Ngô Gia K, sinh ngày: 10/4/2020, chị H không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

4. Về án phí: Chị H chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lộc Ninh theo biên lai thu tiền số 0009654 ngày 20 tháng 12 năm 2021.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về xin ly hôn số 23/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;