Bản án về xin ly hôn số 12/2022/DSST-HNGĐ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUYÊN HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 12/2022/DSST-HNGĐ NGÀY 11/05/2022 VỀ XIN LY HÔN

Trong ngày 11 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 10/2022/TLST - HNGĐ ngày 21/01/2022 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2022/QĐST- DS ngày 26/4/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Trần Văn L, sinh năm: 1964.

Nơi ĐKHKTT:Thôn Đại S, xã Đồng H, huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình. (có mặt).

Bị đơn:Bà Nguyễn Thị Hồng Th, sinh năm: 1976.

Nơi ĐKNKTT:Thôn Đại S, xã Đồng H, huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình.

Hiện tạm trú tại: 40/4A, tổ 37 khu phố Chiêu L, phường Tân Đông H, thị xã Dĩ A, tỉnh Bình D ( Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 12/01/2022và bản tự khai ngày 22/02/2022 củng như lờitrình bày tại phiên tòa ông Trần Văn L khai: Tôi (Trần Văn L) và bà Nguyễn Thị Hồng Th tìm hiểu để đi đến kết hôn với nhau do hai bên hoàn toàn tự nguyện không có ai ép buộc, đã đăng ký kết hôn tại UBND xã Phong H, huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình vào ngày 17/01/1994. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống chung cùng ông bà nội (bố mẹ ông L) tại thôn Đại S, xã Đồng H, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2012 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẩn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm thường xuyên cải vã lẫn nhau đến năm 2015 bà Nguyễn Thị Hồng Th tự ý bỏ nhà đi vào làm ăn tại tỉnh Bình D vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Hiện tại tình cảm vợ chồng thực sự không còn nữa, mâu thuẫn không thể khắc phục được nên ông Trần Văn L làm đơn xin ly hôn bà Nguyễn Thị Hồng Th.

Ngày 22/02/2022 Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình ra quyết định ủy thác thu thập chứng cứ cho Tòa án nhân dân thành phố Dĩ A, tỉnh Bình D lấy lời khai của bà Nguyễn Thị Hồng Th thì bà Thủy khai: tôi ( Nguyễn Thị Hồng Th) và ông Trần Văn L tìm hiểu để đi đến kết hôn với nhau là hoàn toàn tự nguyện đã đăng ký kết hôn tại UBND xã Phong H, huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình vào năm 1994, sau khi kết hôn vợ chồng về sồng chung cùng bố mẹ ông L tại thôn Đại S xã Đồng H, huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình được một năm thì vợ chồng vào sống và làm ăn tại Vũng Tàu. Năm 2005 bố mẹ ông L chết bà Th về quê cùng hai đứa con sinh sống, ông L vẫn ở lại Vũng Tàu làm việc, mỗi năm ông L về quê một lần, mổi lần về nhà vợ chồng lại xẩy ra mâu thuẫn, gây gỗ cãi nhau. Năm 2015 bà Th cùng con vào Vũng Tàu để làm ăn và nuôi con gái ăn học, bà Th xuống Vũng Tàu để tìm ông L thì phát hiện ông L sinh sống với người phụ nữ khác nên bà Th cùng con về sống tại Bình D làm ăn, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. ông Luận bỏ mặc vợ con không quan tâm nữa. Hiện tình cảm vợ chồng thực sự không còn nữa ông Trần Văn L làm đơn xin ly hôn, bà Nguyễn Thị Hồng Th hoàn toàn đồng ý.

Về con chung của vợ chồng: Ông Trần Văn L và bà Nguyễn Thị Hồng Th đều thừa nhận vợ chồng có hai đứa con chung là Trần Thị Hồng Ng, sinh ngày 01/9/1996 hiện đã lập gia đình và có công việc làm ổn định và Trần Minh Đ, sinh ngày 27/8/2004 hiện đang là học sinh, từ khi vợ chồng ly thân con Trần Minh Đ ở cùng bà Nguyễn Thị Hồng Th. Nguyện vọng của ông Trần Văn L sau khi vợ chồng ly hôn xin được nuôi con Trần Minh Đ và không yêu cầu bà Th đóng góp tiền nuôi con hàng tháng. Con Trần Hồng Ng hiện đã trưỡng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà Nguyễn Thị Hồng Th cũng có nguyện vọng xin được tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng conTrần Minh Đ và không yêu cầu ông Luận phải đóng góp tiền nuôi con hàng tháng. Con Trần Minh Đ cũng có nguyện vọng xin được ở với mẹ là bà Nguyễn Thị Hồng Th.

Về tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng: Ông Trần Văn L và bà Nguyễn Thị Hồng Th đều nhất trí không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Án phí ông Trần Văn L đã nộp số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng)theo biên lai số: 0000044 ngày 21/01/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình nay xin chịu toàn bộ.

Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình phát biểu tại phiên tòa đối với Thẩm phán và Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ theo các quy định của pháp luật và tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã đảm bảo thực hiện đúng và đủ thành phần theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Quá trình giải quyết ông Trần Văn L đều có mặt theo thông báo phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án còn bà Nguyễn Thị Hồng Th vắng mặt, Tòa án đã tiến hành ủy thác cho Tòa án nhân dânthành phố Dĩ A, tỉnh Bình D thu thập đầy đủ chứng cứ theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay anh ông Trần Văn L có mặt còn bà Nguyễn Thị Hồng Th có đơnđề nghị xét xử vắng mặt vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 227,khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị Hồng Th. Về quan hệ hôn nhân đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để xử ông Trần Văn L được ly hôn bà Nguyễn Thị Hồng Th. Về con chung đề nghị áp dụng các Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình giao con Trần Minh Đ, sinh ngày 27/8/2004 cho bà Nguyễn Thị Hồng Th chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi con khôn lớn, trưởng thành. Bà Nguyễn Thị Hồng Th không yêu cầu ông Trần Văn L phải đóng góp tiền nuôi con hàng tháng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bà Nguyễn Thị Hồng Th không được ngăn cản việc đi lại chăm sóc con chung đối với ông Trần Văn L. Trường hợp cần thiết vì quyền lợi của con thì ông L có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng ông Trần Văn L và bà Nguyễn Thị Hồng Th hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Án phí dân sự sơ thẩm ông Trần Văn L đã nộp số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa nay phải chịu toàn bộ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Trần Văn L xin ly hôn bà Nguyễn Thị Hồng Th đều có hộ khẩu thường trú tại thôn Đại S, xã Đồng H, huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình. Quá trình giải quyết ông Trần Văn L có mặt còn bà Nguyễn Thị Hồng Th vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình đã ủy thác thu thập chứng cứ lấy lời khai của bà Nguyễn Thị Hồng Th theo quy định của pháp luật. Bà Nguyễn Thị Hồng Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử xét thấy đơn đề nghị xét xử vắng mặt của bà Nguyễn Thị Hồng Th đúng với quy định của pháp luật nên căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị Hồng Th.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Văn L và bà Nguyễn Thị Hồng Th tìm hiểu để đi đến kết hôn là do hai bên hoàn toàn tự nguyện, không có ai ép buộc đã đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên đây là cuộc hôn nhân hợp pháp, nhưng do quá tình chung sốngvợ chồng bất đồng quan điểm nên dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng và không khắc phục được vợ chồng sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay, hai bên đều nhất trí xin được ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy nguyện vọng của cả hai bên là hoàn toàn phù hợp, nhưng do bà Nguyễn Thị Hồng Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt không có mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử không áp dụng được Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình để công nhận sự tự nguyện thỏa thuận ly hôn mà phải áp dụng khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để xét xử ông Trần Văn L được ly hôn bà Nguyễn Thị Hồng Th.

[3] Về con chung của vợ chồng: Ông Trần Văn L và bà Nguyễn Thị Hồng Th đều thừa nhận vợ chồng có hai đứa con chung tên là Trần Thị Hồng Ng, sinh ngày 01/9/1996 và Trần Minh Đ, sinh ngày 27/8/2004. Con Trần Thị Hồng Ng đã trưởng thành đã xây dựng gia đình và có việc làm ổn định nên vợ chồng phải có trách nhiệm, nghĩa vụ chung. ConTrần Minh Đ chưa trưởng thành từ khi vợ chồng ly thân con ở với bà Th nguyện vọng của bà Th xin được tiếp tục trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con đến lúc con khôn lớn, trưởng thành và không yêu cầu ông L phải đóng góp tiề n nuôi con hàng tháng theo quy định của pháp luật. Con Trần Minh Đ cũng có nguyện vọng xin được ở với bà Th. Hội đồng xét xử thấy nguyện vọng của bà Th và con Trần Minh Đ là hoàn toàn chính đáng nên cần áp dụng các Điều 81, Điều 82 , Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình giao con Trần Minh Đ, sinh ngày 27/8/2004cho bà Nguyễn Thị Hồng Th trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến lúc con khôn lớn, trưởng thành.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng bà Nguyễn Thị Hồng Th không yêu cầu ông Trần Văn L phải đóng góp tiền nuôi con hàng tháng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bà Nguyễn Thị Hồng Th không được ngăn cản việc đi lại chăm sóc con chung đối với ông Trần Văn L, trường hợp cần thiết vì quyền lợi của con ông L có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con .

[4] Về tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng: Ông Trần Văn Luận và bà Nguyễn Thị Hồng Thủy không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trần Văn L đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai số:0000044 ngày 21/01/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa nay phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của ông Trần Văn L đối với bà Nguyễn Thị Hồng Th.

Áp dụng khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 để xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị Hồng Th.

[1].Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử: Ông Trần Văn L được ly hôn bà Nguyễn Thị Hồng Th.

[2]. Về con chung của vợ chồng: Áp dụng các Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình: Giao conTrần Minh Đ, sinh ngày 27/8/2004 cho bà Nguyễn Thị Hồng Th trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi con khôn lớn trưởng thành. Ông Trần Văn Luận không phải đóng góp tiền nuôi con hàng tháng.

Bà Nguyễn Thị Hồng Th không được ngăn cản việc đi lại chăm sóc con chung đối với ông Trần Văn L, trường hợp cần thiết vì quyền lợi của con ông Trần Văn L có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

[3]. Về tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng: Ông Trần Văn L và bà Nguyễn Thị Hồng Th không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về án phí ly hôn: Ông Trần Văn L phải chịu 300.000đ(ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Được khấu trừ vào số tiền mà ông Luận đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000đ(ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số: 0000044 ngày 21/01/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Như vậy ông Trần Văn L đả nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Tuyên bố nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày xét xử sơ thẩm (11/5/2022), bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã Đồng H, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về xin ly hôn số 12/2022/DSST-HNGĐ

Số hiệu:12/2022/DSST-HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuyên Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;