Bản án về xin ly hôn số 10/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 10/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/10/2021 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 14/10/2021, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 52/2021/TLST-HNGĐ ngày 06/7/2021 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2021/QĐXX - HNGĐ ngày 07/9/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 491/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29/9/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N. Sinh năm 1993.

Địa chỉ: Xóm 7, xã H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Anh Phan Khắc C. Sinh năm 1991.

Địa chỉ: Xóm 11, xã P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày:

Về tình cảm: Chị Nguyễn Thị N và anh Phan Khắc C đăng ký kết hôn vào ngày 11/9/2018 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng về sống tại xóm 11, xã P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian đến tháng 02/2020 thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh C không lo làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình dẩn đến vợ chồng sống không có hạnh phúc, thường xuyên bất hòa quan điểm sống, không thể chia sẻ cùng nhau, không thể tìm được tiếng nói chung. Chị N không thể chịu đựng thêm được nữa, chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống từ tháng 02/2020 cho đến nay, vợ chồng sống ly thân đã cắt đứt mọi quan hệ. Nay chị N nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị N được ly hôn với anh C.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung, chị N yêu cầu Tòa án giải quyết cho được nuôi con. Về Cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Phan Khắc C tại bản tự khai ngày 09/8/2021 và tại phiên hòa trình bày:

Về điều kiện, thời gian và nơi đăng ký kết hôn của vợ chồng đúng như chị N đã trình bày là đúng. Vợ chồng sống hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn với lý do chồng không có trách nhiệm, dẫn đến vợ chồng chung sống không được hạnh phúc thì chị N bỏ đi về bên ngoại sống và sống ly thân với nhau từ đầu năm 2019 đến nay. Nay chị N làm đơn xin ly hôn thì anh C tùy ý kiến của chị N.

Về con chung: Vợ chồng một có con chung, anh C nhường quyền nuôi con cho chị N nuôi con, nhất trí ý kiến chị N không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng chị N và anh C không thể không thỏa thuận được với nhau về quan hệ tình cảm. Ngày 05/8/2021 tòa án tiến hành thông báo phiên hòa giải lần hai. Phiên hòa giải ngày 09/8/2021 anh C đến tham gia phiên giải, anh C đã có ý kiến ghi vào biên bản, nhưng anh C không Ký vào biên bản mà lại tự ý bỏ về không có lý do, nên vụ án phải đưa ra xét xử.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát, kiểm sát việc tuân theo pháp luật có ý kiến như sau:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi Tòa án tiến hành thụ lý đơn, giải quyết vụ án cho đến phiên tòa hôm nay Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của BLTTDS, nguyên đơn thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật, bị đơn thực hiện tương đối đầy đủ các quy định của pháp luật.

- Về ý kiến giải quyết nội dung vụ án: Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được, đối chiếu với các quy định của pháp luật có cơ sở đề nghị HĐXX:

- Về quan hệ vợ chồng: Áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 1, 3 Điều 81, khoản 1, 3 Điều 82, Điều 83 l chấp nhận nội dung đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị N, đồng ý cho chị N ly hôn với anh C.

- Về con cái: Giao con Phan Nguyễn Bảo U, sinh ngày 22/2/2019 cho chị Nguyễn Thị N trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con chị N không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

- Về tài sản: Các bên đương sự, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

- Về án phí: Áp dụng khoản 4, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a, khoản 1 Điều 24 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc nguyên đơn chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến vị đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị N có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện H giải quyết ly hôn, quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Phan Khắc C có địa chỉ cư trú tại xóm 11, xã P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H.

[2] Bị đơn anh Phan Khắc C đã biết được tòa án thụ lý vụ án, có mặt tại Tòa án để làm bản tự khai, tòa án tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng các bên không thỏa thuận được với nhau. Vì vậy vụ án phải đưa ra xét xử. Tòa án đã triệu tập hợp lệ phiên tòa lần thứ 01 nhưng bị đơn vắng mặt nên hoãn phiên tòa, đã tống đạt hợp lệ quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn. Phiên tòa lần thứ 2 bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N và anh Phan Khắc C kết hôn trên cơ sở tự do, tự nguyện tìm hiểu tiến tới hôn nhân và đã đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh vào ngày 11/9/2018 nên xác định là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Theo chị N trình bày: Sau khi cưới vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc được một thời gian ngắn thì bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn. Lý do là anh C không chăm lo làm ăn, bỏ bê gia đình dẫn đến bất hòa quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng vẫn không hàn gắn được tình cảm, chị N đã bỏ về nhà cha mẹ đẻ ở, cắt đứt mối quan hệ tình cảm. HĐXX nhận thấy vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không thể đạt được nữa. Việc chị N làm đơn xin ly hôn là hoàn toàn tự nguyện, có căn cứ, phù hợp với Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, nên HĐXX chấp nhận.

[4] Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 01 con chung. Tên là Phan Nguyễn Bảo U, sinh ngày 22/2/2019. Chị N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con cho đến khi con đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy việc chị N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con là chính đáng, đảm bảo đầy đủ điều kiện về mọi mặt để nuôi con, con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi là phù hợp với thực tế cũng như ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Vì vậy, HĐXX căn cứ vào Điều 58; khoản 1, khoản 3 Điều 81; khoản 1, khoản 3 Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình nên giao con cho chị N nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi. Chị N không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con nên HĐXX không xem xét. Anh C có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung, không ai được quyền ngăn cấm theo quy định tại Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về quan hệ tài sản chung: Các bên đương sự không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; Điều 56; Điều 57; Điều 58; Khoản 1, 3 Điều 81; khoản 1, 3 Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản 1 điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 điều 227; khoản 3 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết quy định về mức thu, nộp, miễn, giảm, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuyên xử:

1. Về quan hệ tình cảm: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị N được ly hôn với anh Phan Khắc C.

2. Về quan hệ con chung: Giao con Phan Nguyễn Bảo U, sinh ngày 22/2/2019 cho chị Nguyễn Thị N trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Anh Phan Khắc C được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai có quyền ngăn cản và không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn. Chị N đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0004670 ngày 06/7/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện H, nay không phải nộp nữa.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về xin ly hôn số 10/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;