TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 07/2024/HNGĐ-ST NGÀY 09/01/2024 VỀ XIN LY HÔN
Ngày 09 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố R, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 449/2023/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 10 năm 2023, về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 161/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Vương Kim M, sinh năm 1979 (có mặt);
Địa chỉ: số 500, đường N, phường V, thành phố R, tỉnh G.
* Bị đơn: Anh Phạm Văn H, sinh năm 1972 (vắng mặt);
Địa chỉ: số 158B, khu phố V, phường H, thành phố R, tỉnh G.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 28/7/2023 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn chị Vương Kim M thống nhất trình bày: Chị M và anh Phạm Văn H tự quen nhau, chung sống có tổ chức lễ cưới năm 2006, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường V, thành phố R, tỉnh G ngày 25/5/2006.
Nguyên nhân xin ly hôn: Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến khoảng đầu năm 2010 vợ chồng phát sinh mâu thuẩn do tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày, anh H không quan tâm chăm sóc gia đình, không lo làm ăn, thường xuyên cờ bạc nên xảy ra cự cãi bất hòa. Vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2010 đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên chị M làm đơn xin ly hôn với anh H.
- Về con chung: Chị M xác định vợ chồng chung sống không có con chung và chị M cũng không đang mang thai.
- Về tài sản chung: Chị M xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về nợ chung: Chị M xác định không có.
* Bị đơn anh Phạm Văn H đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án;
thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định xét xử; quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng anh Phạm Văn H không có ý kiến trình bày và vắng mặt không có lý do.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố R phát biểu ý kiến về thủ tục tố tụng và quan điểm giải quyết vụ án:
Về quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền thụ lý vụ án: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Đồng thời, Thẩm phán đã xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các bên đương sự theo đúng quy định tại Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về trình tự thụ lý, Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định tại Điều 195 Bộ luật tố tụng dân sự, thông báo thụ lý vụ án cho đương sự và Viện kiểm sát đúng quy định tại Điều 196 Bộ luật tố tụng dân sự; việc gửi văn bản tố tụng đúng theo quy định tại Điều 175, 177, 179 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về việc thu thập chứng cứ: Thẩm phán tiến hành thu thập chứng cứ đúng quy định tại điểm h khoản 2 Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự.
Thẩm phán tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các bên đương sự với nhau theo đúng quy định từ Điều 208 đến Điều 211 Bộ luật tố tụng dân sự.
Việc gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu: chưa đảm bảo thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Đảm bảo thời hạn theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà: Đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quy định tại Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng quy định tại Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự Về nội dung: Chị M và anh H đăng ký kết hôn vào ngày 25/5/2006 tại Ủy ban nhân dân phường V, thành phố R, tỉnh G nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Cả hai đã ly thân từ đầu năm 2010 đến nay.
Về con chung: không có và chị M cũng không đang mang thai. Tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh H không có mặt để tham gia giải quyết vụ án.
Nhận thấy, quan hệ hôn nhân phải được xây dựng, duy trì dựa trên sự tự nguyện, thiện chí của đôi bên để cùng xây dựng mái ấm gia đình. Trong quá trình Tòa án tiến hành giải quyết vụ án, chị M vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với anh H do mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 2, 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, yêu cầu ly hôn của chị M là có cơ sở chấp nhận.
Về án phí: Chị M phải chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Vương Kim M khởi kiện xin ly hôn với anh Phạm Văn H. Do đó, Tòa án xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp hôn nhân gia đình về ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố R, tỉnh G.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vương Kim M và anh Phạm Văn H kết hôn với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, chung sống có tổ chức lễ cưới vào năm 2006, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật và được Ủy ban nhân dân phường V, thành phố R, tỉnh G ngày 25/5/2006, nên theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đây là hôn nhân hợp pháp.
Nguyên nhân xin ly hôn chị M xác nhận là do tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày, anh H thường xuyên cờ bạc, không lo làm ăn, không quan tâm chăm sóc gia đình nên thường xuyên xảy ra cự cải, bất hòa. Mặc dù chị M và anh H đã tự hòa giải để đoàn tụ nhiều lần nhưng không có kết quả, mâu thuẩn vợ chồng càng trở nên sâu sắc, anh H đã bỏ nhà đi vào đầu năm 2020 và anh chị đã sống ly thân với nhau từ đầu năm 2010 đến nay. Nay chị M xét thấy mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng nên yêu cầu được ly hôn với anh H.
Phía anh H không có ý kiến theo yêu cầu xin ly hôn của chị M.
Hội đồng xét xử xét thấy vợ chồng chị M và anh H không còn yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau để xây dựng mái ấm gia đình bền vững, hạnh phúc; thời gian anh chị sống ly thân nhưng vẫn không hàn gắn được tình cảm vợ chồng và tình trạng hôn nhân giữa anh chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận cho chị M được ly hôn với anh H.
[3] Về con chung: Chị M xác định quá trình chung sống không có con chung và chị M cũng không đang mang thai, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[4] Về tài sản chung: Chị M xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Về nợ chung: Chị M xác định không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Do anh Phạm Văn H không có ý kiến tại Tòa án về vấn đề con chung, tài sản chung, nợ chung; nếu sau này có phát sinh tranh chấp về các vấn đề trên anh H có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.
[6] Về án phí: Nguyên đơn chị Vương Kim M phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng các Điều 56, 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Tuyên xử:
1/ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Vương Kim M được ly hôn với anh Phạm Văn H.
2/ Về con chung: Chị M xác định quá trình chung sống không có con chung và chị M cũng không đang mang thai, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
3/ Về tài sản chung: Chị M xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
4/ Về nợ chung: Chị M xác định không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
5/ Về án phí: Buộc chị Vương Kim M phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng, chị M được khấu trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002574 ngày 21/8/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố R, tỉnh G.
Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 09/01/2024). Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 07/2024/HNGĐ-ST về xin ly hôn
Số hiệu: | 07/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về