Bản án về xin ly hôn, nuôi con số 13/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 13/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/03/2022 VỀ XIN LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 18 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 595/2021/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Phạm Tất L, sinh năm 1980; HKTT: khu phố THB, phường AT, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Có đơn xin vắng mặt.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1979; HKTT: khu phố THB, phường AT, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 18/5/2021, bản tường trình ngày 27/12/2021 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Phạm Tất L trình bày: ông L và bà Nguyễn Thị H tự nguyện tìm hiểu, kết hôn năm 2005 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Minh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa theo giấy chứng nhận kết hôn số 15 quyển số 01/2014 ngày 06 tháng 02 năm 2014. Thời gian đầu vợ chồng sống với nhau hạnh phúc, đến đầu năm 2020 xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng trong cuộc sống dẫn đến hôn nhân không hòa hợp, thường xuyên cãi nhau, nhiều lúc xảy ra mâu thuẫn không kìm chế được nên có nhiều chuyện không hay, do đó vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 06 năm 2020. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với bà Nguyễn Thị H.

Về con chung: Quá trình chung sống, có 04 con chung tên Phạm Cực N, sinh ngày 26/6/2009; Phạm Nguyễn Anh D, sinh ngày 04/7/2006 và Phạm Lốc Nguyên A, sinh ngày 12/6/2014; Phạm Nguyễn Ngọc Diễm H, sinh ngày 27/4/2017. Ông L đồng ý giao con chung cho bà Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục 04 con chung và ông L tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung với số tiền là 5.000.000đồng/tháng/con (Năm triệu đồng một tháng một con).

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kèm theo ý kiến, yêu cầu của mình, nguyên đơn đã cung cấp các tài liệu, chứng cứ: Chứng minh nhân dân (bản sao chứng thực), sổ hộ khẩu (bản sao chứng thực); Giấy kết hôn (bản chính); giấy khai sinh cháu Phạm Cực N ( bản sao), Phạm Nguyễn Ngọc Diễm H (bản sao), Phạm Nguyễn Anh D (bản sao) và Phạm Lốc Nguyên A (bản sao).

* Đối với bị đơn bà Nguyễn Thị H: Bà H thống nhất như trình bày của ông L về thời gian kết hôn, đăng ký kết hôn và con chung. Về mâu thuẫn vợ chồng, bà H cho rằng có mâu thuẫn nhưng không trầm trọng, mặc dù bà biết ông L không còn tình cảm với bà, vợ chồng đã sống ly thân từ lâu nhưng vì muốn giữ trọn vẹn gia đình cho các con nên không đồng ý ly hôn. Trường hợp tòa án giải quyết cho ly hôn, bà đồng ý nuôi dưỡng 04 con chung và đồng ý mức cấp dưỡng do ông L đưa ra. Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu giải quyết. Bà H có đơn xin xét xử vắng mặt; không cung cấp tài liệu, chứng cứ nào.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Tòa án nhân dân thành phố Thuận An thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố Tụng dân sự. Nguyên đơn và bị đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại các Điều 70, 71, 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến và yêu cầu khắc phục gì thêm về tố tụng. Về mặt nội dung: căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhận thấy: Mâu thuẫn giữa ông L và bà H đã trầm trọng, không thể hàn gắn làm cho mục đích của hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình. Về con chung là cháu Phạm Cực N, sinh ngày 26/6/2009; Phạm Nguyễn Ngọc Diễm H, sinh ngày 27/4/2017; Phạm Nguyễn Anh D, sinh ngày 04/7/2006 và Phạm Lốc Nguyên A, sinh ngày 12/6/2014 giao cho bà H nuôi dưỡng theo ý kiến của ông L là phù hợp; về cấp dưỡng nuôi con, Tòa án ghi nhận sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung với số tiền là 5.000.000đồng/tháng/con của ông Linh; về tài sản chung và nợ chung: Ông L, bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, qua ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn ông Phạm Tất L và bị đơn bà Nguyễn Thị H có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại các điều 227, 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông L và bà H tự nguyện tìm hiểu và kết hôn năm 2005, sau đó đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Minh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa theo giấy chứng nhận kết hôn số 15 quyển số 01/2014 ngày 06 tháng 02 năm 2014 là đúng quy định về đăng ký kết hôn của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Nguyên đơn ông L khai sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc, thời gian gần đây phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung dần dần xảy ra những mâu thuẫn không thể hàn gắn được, vợ chồng không quan tâm nhau và đã sống ly thân, hiện nay vẫn không thể hàn gắn nên ông yêu cầu được ly hôn với bà H. Bà H cho rằng vợ chồng có mâu thuẫn nhưng chỉ là mâu thuẫn nhỏ, không đáng kể và mặc dù biết ông L không còn tình cảm vợ chồng nhưng vì muốn giữ gia đình cho các con nên không đồng ý ly hôn Xét thấy, trong hôn nhân vợ chồng phải luôn yêu thương, quan tâm, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ cho nhau về mọi mặt để xây dựng hạnh phúc gia đình. Mặc d trong cuộc sống vợ chồng không thể tránh khỏi những mâu thuẫn, xung đột nhưng vợ chồng phải tìm cách giải quyết, hàn gắn.

Trong quá trình giải quyết vụ án, qua xác minh địa phương không xác định được những mâu thuẫn của vợ chồng ông L. Tuy nhiên, qua làm việc và hòa giải, bà H thừa nhận ông L không còn tình cảm với bà và vợ chồng bà đã sống ly thân từ lâu nhưng vì không muốn gia đình tan vỡ nên bà không đồng ý ly hôn. Như vậy, thực tế tình cảm vợ chồng của ông L và bà H đã không còn, ông bà đã sống ly thân nhau, không còn quan tâm đến nhau nên không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, ông L yêu cầu được ly hôn với bà H là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Ông Phạm Tất L đồng ý giao cho bà Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục các con chung là Phạm Nguyễn Anh D, sinh ngày 04/7/2006; Phạm Cực N, sinh ngày 26/6/2009; Phạm Lốc Nguyên A, sinh ngày 12/6/2014 và Phạm Nguyễn Ngọc Diễm H, sinh ngày 27/4/2017. Ông L tự nguyện cấp dưỡng nuôi mỗi con chung với số tiền là 5.000.000đồng/tháng cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi. Qua làm việc, cháu D, cháu N, cháu A có nguyện vọng sống cùng mẹ. Bà Hoan đồng ý nuôi dưỡng con chung và mức cấp dưỡng do ông L đề xuất nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thống nhất này.

Ông L có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở. Trường hợp ông L lạm dụng quyền thăm nom con để gây khó khăn, cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung thì bà H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con, chăm sóc con chung theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Vì quyền và lợi ích hợp pháp của các con chung chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi có yêu cầu.

- Tài sản chung và nợ chung: Ông L, bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[4] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ.

[5] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông L phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, các điều 147, 227, 228, 266, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Áp dụng các điều 56, 81, 82, 83, 84, 110 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Tất L đối với bị đơn bà Nguyễn Thị H về việc xin ly hôn, tranh chấp nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Phạm Tất L được ly hôn với bà Nguyễn Thị H.

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, giấy chứng nhận kết hôn số 15 quyển số 01/2014 ngày 06/02/2014, do Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Minh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa cấp cho ông Phạm Tất L và bà Nguyễn Thị H không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: Giao cho bà Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục con chung là Phạm Nguyễn Anh D, sinh ngày 04/7/2006; Phạm Cực N, sinh ngày 26/6/2009; Phạm Lốc Nguyên A, sinh ngày 12/6/2014 và Phạm Nguyễn Ngọc Diễm H, sinh ngày 27/4/2017.

Ông L có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở. Trường hợp ông L lạm dụng quyền thăm nom con để gây khó khăn, cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung thì bà H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con, chăm sóc con chung theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng: Ông L cấp dưỡng nuôi các con chung với số tiền mỗi con chung là 5.000.000đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Thời gian cấp dưỡng bắt đầu tính từ khi tuyên án sơ thẩm.

Kể từ ngày bà H có đơn yêu cầu thi hành cho đến khi thi hành xong, nếu người phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì còn phải chịu lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

Vì quyền và lợi ích hợp pháp của 04 con chung chưa thành niên là Phạm Nguyễn Anh D, sinh ngày 04/7/2006; Phạm Cực N, sinh ngày 26/6/2009; Phạm Lốc Nguyên A, sinh ngày 12/6/2014 và Phạm Nguyễn Ngọc Diễm H, sinh ngày 27/4/2017, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi có yêu cầu.

- Về tài sản chung, nợ chung: ông L, bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Phạm Tất L phải nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng, tổng số tiền là 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng) được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2021-0001886 ngày 09/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Ông L còn phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

3. Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về xin ly hôn, nuôi con số 13/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:13/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;