TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ỨNG HOÀ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 08/2023/DS-ST NGÀY 16/06/2023 VỀ XÁC ĐỊNH QUYỀN SỞ HỮU, QUYỀN SỬ DỤNG TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN
Ngày 16 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H – thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số : 38/2021/TLST – DS ngày 29 tháng 6 năm 2021 về Tranh chấp xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản để thi hành án theo quy định của luật thi hành án dân sự, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số : 082023/QĐXX-DSST ngày 05 tháng 5 năm 2023 giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh L, sinh năm 1944 (Chết ngày 14/9/2022); người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng : Anh Nguyễn Minh K, sinh năm 1978, chị Nguyễn Thị Minh T, sinh năm 1982, anh Nguyễn Minh Th, sinh năm 1977, bà Lê Thị T, sinh năm 1956; đều trú tại : Thôn Thần, xã Minh Đức, huyện H, thành phố H (Anh K, anh T, chị T đều có văn bản ủy quyền cho bà T tham gia tố tụng), bà T có mặt;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn : Ông Bùi Tiến S và ông Nguyễn Huy T, luật sư thuộc văn phòng luật sư Đ, đoàn luật sư thành phố H.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Ct (Tức B), sinh năm 1968; bà Nguyễn Thị C sinh năm 1966; đều trú tại : Thôn T, xã M, huyện U, thành phố H (ông C có văn bản ủy quyền cho bà C tham gia tố tụng), bà C có mặt.
3. Những ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :
- Ủy ban nhân dân huyện H, thành phố H; trụ sở: Thôn Hoàng Xá, thị trấn Vân Đình, huyện H, thành phố H; người đại diện theo pháp luật là ông Phạm Anh T - Chủ tịch, ủy quyền cho bà Vũ Thị O - phó phòng tài nguyên và môi trường, do bà O chuyển công tác nên ủy quyền cho ông Trần Văn K, phó phòng Tài nguyên và môi trường huyện H, ông K có đơn xin xét xử vắng mặt;
- Chi cục thi hành án dân sự huyện H, thành phố H; trụ sở Thôn Hoàng Xá, thị trấn Vân Đình, huyện H, thành phố H; người đại diện theo pháp luật là bà Nguyễn Thị H – chi cục trưởng, ủy quyền cho ông Phạm Hồng D, chấp hành viên tham gia tố tụng, ông D có mặt;
- Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1990;
- Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1994;
- Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1966;
- Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1970;
- Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1954;
- Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1974;
- Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1964;
- Ông Nguyễn Văn C (T), sinh năm 1972;
Đều trú tại : Thôn T, xã M, huyện U, thành phố H -Bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1960; trú tại : Ngõ Trung Tả Khâm Thiên, phường T, quận Đ, thành phố Hòa Nội (Các đương sự đều xin xét xử vắng mặt.
- Ông Nguyễn Văn H (Chết);
- Bà Nguyễn Thị Kim V, sinh năm 1956;
- Anh Nguyễn T A, sinh năm 1992;
- Anh Nguyễn Nhật A, sinh năm 2001 Đều trú tại : Tổ 6 khu 3c, phường Thạnh L, Quân X, thành phố H(Các đương sự đều vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai - Nguyên đơn ông Nguyễn Minh L sau này là bà Lê Thị T đều trình bầy : Trước đây vợ chồng bà có cho vợ chồng bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Văn B vay tiền theo thỏa thuận, tổng số tiền vợ chồng C, B còn nợ là 135.800.000đồng bà đòi nhiều lần không trả. Vì vậy, bà đã khởi kiện bà C ra Tòa, ngày 20/8/2019 Tòa án nhân dân huyện H đã ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 18/2019/QĐST-DS, theo đó vợ chồng bà C, ông B phải có nghĩa vụ trả vợ chồng bá tổng số tiền đã vay 118.700.000đồng và 4,5 chỉ vàng 9999 được quy đổi thành tiền là 17.100.000đồng, tổng số tiền phải trả là 135.800.000đồng, thỏa thuận bị đơn có nghĩa vụ trả làm 08 đợt. Do vợ chồng bà C, ông B không trả bà có đơn yêu cầu thi hành án và được Chị cục thi hành án dân sự huyện H ra T báo về việc thi hành án số : 239/TB-THADS ngày 23/11/2020 và thông báo về việc xác định quyền sử hữu, sử dụng đối với tài sản thi hành án cho các đương sự, tuy nhiên vợ chồng ông B, bà C không tự thỏa thuận phân chia được, tài sản thuộc sở hữu, sử dụng chung đối với vợ chồng bà C, ông C là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, diện tích đất là 150,0m2 thuộc thửa đất số 245, tờ bản đồ số 09 đất thổ cư theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do UBND huyện H cấp ngày 12/4/2004 đứng tên hộ ông Nguyễn Văn C tại Thôn Thần, Minh Đức, H, H. Nay bà T có đơn ra Tòa yêu cầu Tòa xác định phần quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất của người phải thi hành án là vợ chồng bà Nguyễn Thị C và Nguyễn Văn C trong khối tài sản chung của hộ gia đình là diện tích đất là 150,0m2 thuộc thửa đất số 245, tờ bản đồ số 09 đất thổ cư theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do UBND huyện H cấp ngày 12/4/2004 đứng tên hộ ông Nguyễn Văn C tại Thôn Thần, Minh Đức, H, H và tài sản trên đất này để thi hành án.
Các tài liệu chứng cứ ông nộp tại Tòa : Chứng minh thư nhân dân, sổ hộ khẩu, thông báo thi hành án…..
Tại Biên bản lấy lời khai – Bị đơn ông Nguyễn Văn C ủy quyền cho vợ bà Nguyễn Thị C trình bầy : Bà là vợ công nguyễn Văn C vào năm 1999 bà có vay tiền của một số hộ dân ở địa phương để làm ăn, trong đó có vay vợ chồng ông L, bà T như trình bầy ở phần trên là đúng, quá trình làm ăn thua lỗ nên không trả được hiện còn nợ khoảng 20 -30 người, một số người đã khởi kiện ra Tòa và giải quyết bằng các quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, từ sau khi Tòa giải quyết cho đến nay vẫn không có tiền để trả cho những người đã vay, vì vậy vợ chồng ông L bà T có đơn đến cơ quan thi hành án dân sự huyện H để thu hồi số nợ trên, cơ quan thi hành án đã tiến hành làm các thủ tục theo quy định cùa pháp luật nhưng vợ chồng bà vẫn không phân chia được tài sản trong khối tài sản chung để thi hành án, đến nay gia đình ông L, bà T đã khởi kiện ra Tòa để xác định phần quyền của vợ chồng tôi trong khối tài sản chung để thi hành án. Về nguồn gốc tài sản của vợ chồng bà là : Hiện nay gia đình bà đang sử dụng nhà và diện tích đất 150.0m2, đất có nguồn gốc là của bố, mẹ ông chất để lại (Bố chồng là Nguyễn Văn T, mẹ chồng là bà Vũ Thị T đều đã chết) từ khi bà lấy ông C về vợ chồng bà đã được bố mẹ chồng cho thửa đất này để sủ dung làm nhà ở trên đất có nhà cấp 4 nhưng do sập sệ vợ chồng bà đã phá nhà cũ đi làm lại, đến năm 2004 gia đình bà đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận đến ngày 12/4/2004 được UBND huyện H cấp giấy chứng nhận cho hộ ông Nguyễn Văn C. Tại thời điểm cấp giấy hộ gia đình bà có bà, ông C chồng bà, con là Nguyễn Văn C và Nguyễn Thị H. Nay vợ chồng ông L khởi kiện ra Tòa đề nghị Tòa xác định quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất để bảo đảm thi hành án bà đề nghị Tòa xác định phần tài sản chung của vợ chồng bà trong khối tài sản chung để thi hành trả nợ cho những người vợ chồng bà còn nợ trong đó có gia sình ông L.
Các tài liệu chứng cứ ông nộp tại Tòa : Các giấy tờ về nhân thân; giấy ủy quyền ….
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bầy :
- Đại diện Ủy ban nhân dân huyện H bà Vũ Thị O và ông Trần Văn K cũng như công văn số 40/TNMT ngày 24/3/2022 của Phòng Tài nguyên và môi trường huyện H trình bầy : Về thông tin thửa đất số 245, tờ bản đồ 09, diện tích 150,0m2 đã được UBND huyện H cấp giấy chứng nhận quyền sử đụng đất ngày 12/4/2004, cấp cho hộ ông Nguyễn Văn C. Đất có nguồn gốc do ông cha để lại, tại thời điểm cấp giây chứng nhận quyền sử dụng đất ông Nguyễn Văn C đã kê khai cấp cho hộ ông Nguyễn Văn C nên việc UBND huyện H cấp giấy CNQSDĐ cho hộ ông Nguyễn Văn C là về hồ sơ đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật đất đai và các văn bản hướng dẫn liên quan. Thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2004 hộ ông Nguyễn Văn C gồm có những thành viên nào đề nghị tòa án liên hệ với công an xã Minh Đức để xác minh. Thực hiện dự án mở rộng đường tỉnh lộ 428A thửa đất nêu trên nằm trong chỉ giới thu hồi mở rộng đường diện tích thu hồi là 25.9m2. Phần diện tích 127m2 đất nằm trong hành lang đường giao thông thể hiện trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đất hợp pháp của hộ ông Nguyễn Văn C. Do chỉ giới hành lang đường tỉnh lộ 428A đối với vị trí thửa đất của hộ ông Nguyễn Văn C đước tính từ tim đường vào 16m cho nên thửa đất của hộ ông chất có 127m2 đất nằm trong chỉ giới hành lang đường. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Đại diện Chi cục thi hành án dân sự huyện H ông Phạm Hồng D trình bầy : Ông là Chấp hành viên của chi cục thi hành án dân sự huyện H, chi cục thi hành án dân sự huyện H nhận được đơn yêu cầu thi hành án của ông Nguyễn Minh L, bà Lê Thị T đề nghi thi hành đối với vợ chồng ông Nguyễn Văn C, bà Nguyễn Thị C theo QĐ công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 18/2019 ngày 20/8/2013 của TAND huyện H với số tiền phải thi hành là 118.700.000đồng. Ngoài ra còn một số hộ dân khác cũng được Tòa giải quyết bằng Quyết định và bản án họ đều đề nghị thi hành án đối với vợ chồng C, C. Sau khi xác minh tài sản để thi hành án thì thấy tài sản của vợ chồng C, C đang sử dụng phải kê biên đất đứng tên hộ gia đình nên ông đã thông báo cho các thành viên của hộ gia đình và ban hành thông báo để họ tự thỏa thuận phân chia hoặc khởi kiện ra Tòa nhưng hết thời gian hộ không tự phân chia nên ông đã hướng dẫn ông L, bà T khởi kiện ra tòa để xác định phần quyền sở hữu, sử dụng tài sản của vợ chồng C, C để bảo đảm thi hành án. Ngoài việc bảo đảm quyền lợi của vợ chồng L, T thì còn các hộ gia đình khác cũng yêu cầu thi hành án đối với tài sản của vợ chồng C, C. Tuy nhiên họ không khởi kiện nhưng nếu Tòa xác định phần quyền của vợ chồng C, chất thì chúng tôi cũng bảo đảm quyền lợi cho những người này theo quy định của pháp luật. Để việc thi hành án được thuận lợi đề nghị Tòa án xác định rõ vị trí vụ thể về đất và tài sản trên đất của vợ chồng C, C bảo đảm thi hành án.
- Các ông : Nguyễn Văn Sáu, Nguyễn Văn Quảng, bà Nguyễn Thị Bộ, anh Nguyễn Văn Mười, Nguyễn Văn Chín, bà Nguyễn Thị Khảm, bà Nguyễn Thị Đăng đều trình bầy : Về mối quan hệ các ông, bà đều là anh, em ruột của ông Nguyễn Văn C (Tức B). Về nguồn gốc thửa đất vợ chồng ông C, bà C đang sử dụng có nguồn gốc từ bố mẹ các ông cũng như bố mẹ ông C để lại, vì ông C là người có khiếm khuyết về chân nên bố mẹ cũng như tất cả các anh chi em trong gia đình đều trất trí để cho vợ chồng ông C được sử dụng thửa đất đó. Khi ông C làm thủ thục kê khai để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó lúc đó mẹ chúng tôi còn sống cũng như tất cả các anh chị em đều biết và đều nhất trí không ai có ý kiến phản đối gì. Các ông xác định nhà đất đó là của ông C việc ông C bán trả nợ hay làm gì chúng tôi đều không có ý kiến gì.
- Bà Nguyễn Thị Giám trình bầy : Bà là chị gái của ông C bố bà là cụ Nguyễn Văn Tiến chết năm 1980, mẹ bà là cụ Vũ Thị T chết năm 2020 về nhà đất gia đình ông C đang sử dụng, trước khi chất mẹ chúng tôi có họp lại và cho gia đình ông C ở tạm bà không đồng ý với việc ông C thực hiện trái nguyện vọng của mẹ chúng tôi.
- Bà Nguyễn Thị Kim Vui, anh Nguyễn T Anh, anh Nguyễn Nhật Anh là vợ con của ông Nguyễn Văn Hùng có quan điểm không có yêu cầu đề nghị gì về việc khởi kiện vụ án trên.
Tại phiên tòa :
- Nguyên đơn vẫn giữ quan điểm : Đề nghị Tòa chia nhà đất của gia đình ông C, xác định rõ quyền sử hữu, sử dụng nhà đất của hộ gia đình ông C để bào đảm thi hành án.
- Bị đơn : thừa nhận thửa đất đã được bố mẹ chồng cho vợ chồng bà, vợ chồng bà đã xây dựng nhà trên đó, đề nghị Tòa giải quyết theo quy định của pháp luật.
Luật sư trình bầy luận cứ bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn : Xác định nhà, đất có diện tích đất là 150,0m2 thuộc thửa đất số 245, tờ bản đồ số 09 đất thổ cư theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện H cấp ngày 12/4/2004 đứng tên hộ ông Nguyễn Văn C tại Thôn Thần, Minh Đức, H là của vợ chồng bà C, ông C và 02 con ông C, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên ½ thửa đất trên của vợ chồng C, C để thi hàn án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H tham gia phiên tòa kết luận:
+ Về tố tụng : Tòa án nhân dân huyện H đã thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, tiến hành tố tụng là đúng pháp luật. Người tham gia tố tụng được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
+ Về nội dung : Gia đình ông C đang sử dụng thửa đất có diện tích đất là 150,0m2 thuộc thửa đất số 245, tờ bản đồ số 09 đất thổ cư theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện H cấp ngày 12/4/2004 đứng tên hộ ông Nguyễn Văn C tại Thôn Thần, Minh Đức, H, H có nguồn gốc từ ông cha để lại về thủ tục, quy trình cấp giấy chứng nhận là phù hợp với pháp luật đề nghị Tòa xác định quyền sử hữu, quyền sử dụng tài sản chung của vợ chồng ông C, C không hộ gia đình để bảo đảm thi hành án cho vợ chồng ông L, bà T và những người khác có yêu cầu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng : Tòa án nhân dân huyện H đã ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 18/2019/QĐST-DS, theo đó vợ chồng bà C, ông C phải có nghĩa vụ trả vợ chồng bà T, ông L tổng số tiền đã vay 118.700.000đồng và 4,5 chỉ vàng 9999 được quy đổi thành tiền là 17.100.000đồng, tổng số tiền phải trả là 135.800.000đồng. Do vợ chồng bà C, ông C không trả ông L, bà T có đơn yêu cầu thi hành án và được Chị cục thi hành án dân sự huyện H ra T báo về việc thi hành án số : 239/TB- THADS ngày 23/11/2020 và thông báo về việc xác định quyền sử hữu, sử dụng đối với tài sản thi hành án cho các đương sự là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, diện tích đất là 150,0m2 thuộc thửa đất số 245, tờ bản đồ số 09 đất thổ cư theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do UBND huyện H cấp ngày 12/4/2004 đứng tên hộ ông Nguyễn Văn C tại Thôn Thần, Minh Đức, H, H, do bị đơn không tự phân chia tài sản trên để bảo đảm thi hành án nên nguyên đơn khởi kiện ra Tòa. Vì vậy Hội đồng xét xử xác định là vụ án dân sự thuộc trường hợp tranh chấp về “Xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản để thi hành án theo quy định của luật thi hành án dân sự” thuốc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H. Sau khi thụ lý vụ án, trong quá trình thu thập chứng cứ thì nguyên đơn ông Nguyễn Minh L chết, do vậy Tòa đã đưa vợ ông L là bà Lê Thị T và các con ông L là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng tham gia phiên Tòa là bảo đảm theo quy định của pháp luật. Đối với những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khác đều có quan điểm trong biên bản lấy lời khai là xin được vắng mặt tại phiên Tòa xét xử. Do bị đơn vắng mặt tịa phiên tòa nên phiên tòa ngày 30/5/2023 Tòa mở phiên tòa xét xử vụ án nên Tòa đã hoãn phiên tòa, và tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, Tòa phiên tòa hôm nay một số người tham gia tố tụng vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt nên tòa vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về nội dung :
2.1 Xem xét đến quan hệ giữa vợ chồng bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Văn C (Tức B) thấy : Vợ chồng ông C, bà C lấy nhau có cưới hỏi theo phong tục tập quán vào năm 1989, qua tra cứu số sách thì không có đăng ký kết hôn tuy nhiên vợ chồng vẫn sống với nhau và có 02 con chung nên được xác định là hôn nhân hợp pháp, mặt khác theo quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về nghĩa vụ trả nợ thì cả vợ chồng C, B đều có nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn là phù hợp với quy định pháp luật.
2.2 Xem xét đến nguồn gốc thửa đất có diện tích là 150,0m2 thuộc thửa đất số 245, tờ bản đồ số 09 đất thổ cư theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do UBND huyện H cấp ngày 12/4/2004 đứng tên hộ ông Nguyễn Văn C tại Thôn Thần, Minh Đức, H, H có nguồn gốc từ ông cha nhà ông chất để lại. Theo lời khai của ông C cũng như các anh chị em gia đình ông C : Do ông C là người có khiếm khuyết về chân nên bố mẹ ông chất cho ông C đất khi ông C lấy bà C đã làm nhà sinh sống trên thửa đất đó công khai liên tục không ai có ý kiến gì, đến năm 2004 vợ chồng ông C đứng ra kê khai đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ ông Nguyễn Văn C, thời điểm đó cụ T (Mẹ ông C) còn sống cùng với các anh chị em nhà ông C đều biết nhưng mặc nhiên để cho vợ chồng ông C đứng tên nên không ai có ý kiến gì. Do đó căn cứ vào các quy định của pháp luật cũng như phù hợp với tinh thần của Án lệ số 03/2016/AL thì diện thửa đất trên thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình ông Nguyễn Văn C.
2.3 Xem xét đến phần quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Nguyễn Văn C (Tức B) và Nguyễn Thị C trong khối tài sản là và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 245 diện tích 150,0m2 thuộc, tờ bản đồ số 09 đất thổ cư theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do UBND huyện H cấp ngày 12/4/2004 đứng tên hộ ông Nguyễn Văn C tại Thôn Thần, Minh Đức, H, H thấy tại thời điểm cấp giấy chứng nhận hộ gia đình ông C gồm có 04 nhân khẩu là vợ chồng ông C, bà C cùng hai con chung là Nguyễn Văn Chi và Nguyễn Thị Hiền, mặc dù thửa đất có nguồn gốc từ ông cha để lại nhưng đã được kê khai cho hộ gia đình căn cứ vào quy định của pháp luật thì các sở hữu chung theo phần hay sở hữu chung hợp nhất đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau, vì vậy Hội đồng xét xử xác định phần quyền của vợ chồng ông C, bà C là ½ thửa đất cũng như tài sản trên đất để bảo đảm thi hành án đối với vợ chồng ông L, bà T và những người khác theo quy định pháp luật. Mặt khác phần ½ còn lại cũng bào đảm chỗ ở cho gia đình ông C. Tuy nhiên căn cứ vào thực tế của thửa đất cũng như công trình trên đất thì phần được chia để thi hành án cho phù hợp thực trạng khi phân chia để không ảnh hưởng đến công trình xây dựng cũng như việc sử dụng phần công trình và thửa đất còn lại nên chỉ chia cụ thể phần quyền của vợ chồng ông chất là 62,7 m2 có các cạnh và từ cận như sau : Phía đông giáp đường ngõ xóm 11.18m + 1,70m; phía tây giáp phần đất còn lại 12.26m + 1,73m; phía nam giáp đường 428 là 5,02m; phái bắc đất bà Nguyễn Thị Mạo là 4,47m là một phần của thuộc thửa đất số 245 diện là 150,0m2, tờ bản đồ số 09 đất thổ cư theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do UBND huyện H cấp ngày 12/4/2004 đứng tên hộ ông Nguyễn Văn C tại Thôn Thần, Minh Đức, H, H. Việc xác định phần quyền cụ thể về vị trí như trên cũng bảo đảm được yêu cầu của Cơ quan thi hành án dân sự huyện H, thành phố H để thi hành án thuộc lợi cho bị đơn và những người khác khi có yêu cầu theo luật thi hành án.
[3] Về chi phí tố tụng : Nguyên đơn đã nộp chi phí tố tụng cho việc xác minh, định giá tài 10.000.000đồng, xét thấy nguyên đơn tự nguyện nộp số tiền này nên được chấp nhận.
[4] Về án phí : Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm b Khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phi và lệ phí ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Vì yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên phía bị đơn phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm, hoàn lại bà Lê Thị T số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai lai số 0057172 ngày 29/6/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện H.
[5] Về quyền kháng cáo : Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[6] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H, kiểm sát viên tham gia phiên Tòa đã nhận xét về thủ tục tố tụng Tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Quan điểm giải quyết vụ án đã phân tích, đánh giá toàn diện chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp quy định pháp luật.
Bởi các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào : Khoản 1 Điều 6, Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, các Điều 157, 207, 208, 210, 211, 220, 227, 228, 262 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 209, 210, 212 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 16 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Điều 74 của Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phi và lệ phí ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử :
1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Minh L về việc “Xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản để thi hành án theo quy định của luật thi hành án dân sự” đối với bị đơn bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Văn C (Tức B).
2. Xác định tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất diện tích đất là 150,0m2 thuộc thửa đất số 245, tờ bản đồ số 09 đất thổ cư theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện H cấp ngày 12/4/2004 đứng tên hộ ông Nguyễn Văn C tại Thôn Thần, Minh Đức, H, H thuộc sở hữu chung của hộ gia đình ông Nguyễn Văn C (Tức B); trong đó có ½ phần tài sản chung của vợ chồng ông Nguyễn Văn C (Tức B) bà Nguyễn Thị châm để thi hành án theo quy định pháp luật về thi hành án dân sự. Căn cứ vào thực trạng của thửa đất cũng như công trình trên đất thì phần được chia để thi hành án cho phù hợp không ảnh hưởng đến công trình xây dựng cũng như việc sử dụng phần công trình và thửa đất còn lại nên chỉ chia cụ thể phần quyền của vợ chồng ông chất là 62,7 m2 đất (Trong đó có 8,3m2 đất chỉ giới bị thu hồi, phần còn lại là 54,4m2đất), trên đất có một phần của ngôi nhà 1 tầng và phía trước nhà được lập tôn, được chia theo sơ đồ phân chia H1 gồm các cạnh ABCD, có các chiều và tứ cận như sau : Phía đông giáp đường ngõ xóm 11.18m + 1,70m (Cạnh AB); phía tây giáp phần đất còn lại 12.26m + 1,73m (Cạnh DC); phía nam giáp đường 428 là 5,02m (Cạnh DA); phía bắc đất bà Nguyễn Thị Mạo là 4,47m (Cạnh BC). Sơ đồ phân chia đất kèm theo bản án là một bộ phận không thể tách rời bản án này.
Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, buộc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án Dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.
3. Về chi phí tố tụng : Chấp nhận sự tự nguyện của Nguyên đơn chịu cả số tiền 10.000.000đồng (Mười triệu đồng) chi phí định giá tài sản.
4. Về án phí : Buộc bà Nguyễn Thị C ông Nguyễn Văn C (Tức B) phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại ông Nguyễn Minh L do bà Nguyễn Thị T thừa kế quyền nghĩa vụ tố tụng nhận lại 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0057172 ngày 29/6/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện H.
5. Về quyền kháng cáo : Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đối với đương sự có mặt. Kể từ ngày bản án được giao hợp lệ hoặc được niêm yết tại UBND nới thường trú đối với đương sự vắng mặt./.
Bản án 08/2023/DS-ST về xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản để thi hành án
Số hiệu: | 08/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 16/06/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về