TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 83/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ XÁC ĐỊNH CHA CHO CON
Ngày 29/7/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số 625/2022/HNGĐ-ST ngày 19/5/2022 về việc “Xác định cha cho con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19/7/2022, giữa các đương sự:
*Nguyên đơn: Bà Lê Thị Thúy Ph.
*Bị đơn: Ông Võ Văn Q
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Võ Thanh H
Cùng địa chỉ: 188/2 Trần Nguyễn H, Ph, Nha Trang Đều có đơn xin xét xử vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Theo đơn khởi kiện, trong bản tự khai, biên bản hòa giải nguyên đơn bà Lê Thị Thúy Ph trình bày:
Tháng 9/1991, tôi và ông Võ Văn Q đăng ký kết hôn tại UBND phường Ph, Tp. Nha Trang. Khi kết hôn với tôi, ông Võ Văn Q đã mượn giấy tờ tùy thân của em ruột là Võ Thanh H để đứng tên trên giấy kết hôn và giấy khai sinh của hai con chúng tôi. Mục đích là để ông Võ Văn Q trốn đi lính cho chế độ cũ, do Võ Thanh H là người khuyết tật bẩm sinh. Năm 2007, ông Võ Văn Q làm các thủ tục cải chính hộ tịch trên sổ hộ khẩu từ tên Võ Thanh H thành tên Võ Văn Q.
Trong quá trình chung sống tôi và ông Võ Văn Q có 02 con chung tên Võ Quốc B - SN: 23/5/1994 và Võ Quốc Đ - SN: 05/11/2004.
Nay để hoàn tất thủ tục pháp lý và giấy tờ tùy thân của chúng tôi cũng như hai con chung của tôi, tôi làm đơn đề nghị Tòa án xác định ông Võ Văn Q là cha đẻ của hai cháu Võ Quốc B - SN: 23/5/1994 và Võ Quốc Đ - SN: 23/5/1994.
Căn cứ kết quả xét nghiệm ADN do Công ty cổ phần Công nghệ sinh học Bionet Việt Nam ngày 24 tháng 3 năm 2022 kết luận ông Võ Văn Q là cha sinh học (cha đẻ) của Võ Quốc Đ và Võ Quốc B (với xác suất 99,99999999997%).
* Bị đơn ông Võ Văn Q trình bày: Về nội dung trình bày của vợ tôi bà Lê Thị Thúy Ph là hoàn toàn đúng sự thật. Căn cứ kết quả xét nghiệm ADN do Công ty cổ phần Công nghệ sinh học Bionet Việt Nam ngày 24 tháng 3 năm 2022 kết luận ông Võ Văn Q là cha sinh học (cha đẻ) của Võ Quốc Đ và Võ Quốc B (với xác suất 99,99999999997%). Tôi đề nghị Tòa án xác định tôi là cha đẻ của hai con chúng tôi cháu Võ Quốc B và Võ Quốc Đ.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Võ Thanh H trình bày: Về nọi dung khởi kiện và yêu cầu của bà Lê Thị Thúy Ph là hoàn toàn đúng sự thật. Vì thực tế tôi không phải là chồng của bà Ph mà chỉ là có tên trên giấy đăng ký kết hôn và giấy khai sinh của hai cháu Võ Quốc B và Võ Quốc Đ là do anh ruột tôi Võ Văn Q mượn tên tôi (tôi là người bị khuyết tật bẩm sinh) để không phải đi lính cho chế độ cũ. Năm 2007 anh tôi Võ Văn Q đã làm thủ tục cải chính hộ tịch. Nay bà Lê Thị Thúy Ph làm đơn yêu cầu Tòa án xác định hai cháu Võ Quốc B ( sinh ngày: 23/5/1994) và Võ Quốc Đ (sinh ngày: 05/11/2004) là con đẻ của anh Võ Văn Q , tôi không có ý kiến gì.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thực hiện đúng trình tự tố tụng. Về nội dung giải quyết vụ án: Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 89; khoản 3 Điều 102 của Luật hôn nhân và gia đình 2014; Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xác định hai cháu Võ Quốc B ( sinh ngày: 23/5/1994) và Võ Quốc Đ (sinh ngày: 05/11/2004) là con đẻ của ông Võ Văn Q.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Lê Thị Thúy Ph, bị đơn ông Võ Văn Q và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Thanh H đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án tranh chấp xác định cha cho con theo quy định tại khoản 4 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn ông Võ Văn Q cư trú tại thành phố Nha Trang nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[3] Về nội dung vụ án:
Xét thấy: Tháng 9/1991, bà Lê Thị Thúy Ph và ông Võ Văn Q đăng ký kết hôn tại UBND phường Ph, Tp. Nha Trang. Khi kết hôn với bà Ph, ông Q đã mượn giấy tờ tùy thân của em ruột là Võ Thanh H để đứng tên trên giấy kết hôn và giấy khai sinh của hai con. Mục đích là để ông Võ Văn Q trốn đi lính cho chế độ cũ, do ông Võ Thanh H là người khuyết tật bẩm sinh.
Căn cứ vào phiếu kết quả ADN số BLC68022-1 ngày 24/3/2022 của Công ty cổ phần công nghệ sinh học Bionet Việt Nam đã kết luận: “ ông Võ Văn Q và cháu Võ Quốc B có quan hệ huyết thống: Cha - Con với độ tin cậy > 99,9999%”.
Căn cứ vào phiếu kết quả ADN số BLC68022-2 ngày 24/3/2022 của Công ty cổ phần công nghệ sinh học Bionet Việt Nam đã kết luận: “ ông Võ Văn Q và cháu Võ Quốc Đ có quan hệ huyết thống: Cha - Con với độ tin cậy > 99,9999%”.
Theo bản tự khai của ông Võ Văn Q và ông Võ Thanh H cũng xác định hai cháu Võ Quốc B ( sinh ngày: 23/5/1994) và Võ Quốc Đ (sinh ngày: 05/11/2004) là con đẻ của ông Võ Văn Q và bà Lê Thị Thúy Ph. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định hai cháu Võ Quốc B ( sinh ngày: 23/5/1994) và Võ Quốc Đ (sinh ngày:
05/11/2004) là con đẻ của ông Võ Văn Q. Vì vậy, áp dụng khoản 1 Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
[4] Về án phí: Bà Lê Thị Thúy Ph tự nguyện nộp toàn bộ án phí HNGĐ-ST thay cho phần của ông Võ Văn Q. Như vậy bà Lê Thị Thúy Ph phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí HNGĐ-ST, số tiền trên được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0001776 ngày 19/5/2022 của Chi cục thi hành án dân sự Thành phố Nha Trang. Bà Lê Thị Thúy Ph đã nộp đủ án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 4 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; khoản 1 Điều 227, Điều 271, Điều 273, Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 88; Điều 90; khoản 3 Điều 102 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
Căn cứ vào khoản 1, 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Xử:
1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Thúy Ph về việc “ Xác định cha cho con”.
Xác định hai cháu Võ Quốc B ( sinh ngày: 23/5/1994) và Võ Quốc Đ (sinh ngày: 05/11/2004) là con đẻ của ông Võ Văn Q.
2. Về án phí: Bà Lê Thị Thúy Ph phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí HNGĐ-ST. Số tiền trên được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0001776 ngày 19/5/2022 của Chi cục thi hành án dân sự Thành phố Nha Trang. Bà Lê Thị Thúy Ph đã nộp đủ án phí
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn; Bị đơn; Người có quyền lợi, nghĩa vụ lien quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án để đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.
Bản án về xác định cha cho con số 83/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 83/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/07/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về